Báo cáo Mô cơ vân

Là bào quan rất đặt biệt, có rất nhiều trong tế bào cơ và xếp theo chiều dọc của sợi cơ. Tơ cơ nhỏ đường kính 1-2µm có thể nhìn thấy dưới kính hiển vi quang học. Các tơ này là các thành phần tham gia vào quá trình co cơ. Chúng nằm song song với nhau và tạo nên những vạch nổi bật làm cho cơ có những vân điển hình.

 

pptx18 trang | Chia sẻ: minhminh | Lượt xem: 3759 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung Báo cáo Mô cơ vân, để tải tài liệu về máy bạn hãy click vào nút TẢI VỀ
Click to edit Master title style Click to edit Master text styles Second level Third level Fourth level Fifth level 9/8/2013 ‹#› Sinh viên thực hiện: 	1.Nguyễn Thị HoàngAnh 	2.Nguyễn Thị Thanh Bích 	3.Nguyễn Thị Ly Nâu 	4.Nguyễn Thị Thùy Nhung MÔ CƠ VÂN ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM Báo cáo: Mở đầu Chuyển động là một đặc điểm cơ bản của cơ thể sống và giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với động vật. Ở đa số các động vật đa bào đã có mô cơ chuyên hóa. Nó tạo thành 40% khối lượng cơ thể ở các loài động vật có vú và các loài động vật có xương sống khác. Ở động vật có xương sống, người ta phân ra 3 loại cơ chính: cơ vân, cơ tim và cơ trơn. Chúng có nguồn gốc, cấu tạo và chức năng khác nhau. Trong 3 loại cơ trên thì cơ vân chiếm tỉ lệ nhiều nhất. Chúng ta sẽ tìm hiểu rõ hơn về cấu trúc, chức năng và sự co dãn cơ ở các phần tiếp sau đây. I.Cơ vân: Cơ vân có nguồn gốc từ trung phôi bì. Vận động và co duỗi theo sự điều khiển của ý muốn. Đơn vị cấu tạo không phải là những tế bào riêng biệt mà là những thể hợp bào gọi là sợi cơ. Dưới kính hiển vi quang học sợi cơ có chứa những vân màu sáng và tối xen kẽ nhau rất đều đặn. Cơ vân thường bám vào xương, một số ít bám vào da như da đầu, da mặt, phần trên của thực quản. 1.Cấu tạo hình thái sợi cơ: Có thể tách sợi cơ ra khỏi bó cơ bằng cách ngâm vào nước nóng hay acid Nitơric. Mỗi sợ cơ vân là một khối hình lăng trụ đường kính 12-100µm, chiều dài thay đổi từ 1 đến 45cm. *Mỗi sợi cơ gồm có: a. Màng sợi cơ: Là màng sinh học bọc quanh một khối nguyên sinh chất trong có nhiều tơ cơ nằm dọc cùng một hướng với sợi cơ. Dưới kính hiển vi quang học màng sợi cơ vân là một màng thuần nhất. Dưới kính hiển vi điện tử màng gồm có hai lớp từ trong ra ngoài là màng bào tương và màng đáy. Ngoài màng đáy còn có một lớp sợi võng tạo keo dùng để liên kết các sợi cơ lại với nhau. Mỗi sợi cơ có hàng trăm nhân nằm dưới màng cơ. b.Nhân: Tế bào cơ vân có nhiều nhân. Nhân tế bào cơ vân có dạng hình bầu dục, hơi dài và phân bố ở vùng rìa sát ngay dưới màng. c.Cơ tương: Đối với các tế bào cơ, bào tương còn gọi là cơ tương. Cơ tương có chứa đầy đủ các thành phần và các bào quan, đặc biệt là myoglobin, glycogen, ty thể và lưới nội bào (hệ thống ống ngang T và hệ thống ống phủ). Bên trong các sợi cơ lại có nhưng cơ tơ nhỏ. c.Tơ cơ: Là bào quan rất đặt biệt, có rất nhiều trong tế bào cơ và xếp theo chiều dọc của sợi cơ. Tơ cơ nhỏ đường kính 1-2µm có thể nhìn thấy dưới kính hiển vi quang học. Các tơ này là các thành phần tham gia vào quá trình co cơ. Chúng nằm song song với nhau và tạo nên những vạch nổi bật làm cho cơ có những vân điển hình. Thành phần của vân: Đoạn sáng được gọi là đĩa I (Isotropic band). Đĩa I có kích thước khoảng 0,8µm, được chia đôi bởi một vạch sẫm màu gọi là vạch Z (zwischensheibe). Đoạn tối gọi là đĩa A (Anisotropic band) dày 1,5µm. Giữa đĩa A có một vùng sáng màu gọi là vùng H, giữa vùng H là vạch M. Dưới kính hiển vi điện tử tơ cơ được cấu thành bởi 2 loại siêu sợi cơ (xơ cơ). Xơ Actin: Là sợi mảnh dài 1µm, đường kính 8nm. Xơ actin được hình thành do sự đa trùng hợp của protêin hình cầu gọi là G.actin. Xơ Myozin: Là 1 phức hợp prôtêin hình gậy được hình thành do sự xắp xếp từ 180- 200 phân tử myozin. Myozin là 1 protêin hình sợi hình thành do sự xoắn lại của 2 sợi polypeptid. Myozin có đường kính 150- 170A0, dài 1,5µm. Sự xắp xếp của xơ Myozin và xơ Actin Hình dung sự xắp xếp của xơ myozin và xơ actin trên cùng một mặt phẳng, khi cắt dọc một sợi cơ mặt cắt ngang qua xơ myozin và xơ actin ta có hình ảnh 2 sợi lồng vào nhau Đĩa I (đĩa sáng) chỉ có xơ actin. Đĩa A (đĩa tối) có cả actin và myozin Vùng H không có xơ actin Xơ myozin có khoảng giữa phình ra đó là vạch M. 2.Sự co giãn cơ: Khi một sợi cơ co mỗi đơn vị co cơ trong tơ cơ lại ngắn lại. Đó là do sự tương tác phân tử giữa thành phần chủ yếu của đơn vị co cơ là các tơ mảnh và tơ dày. Các tơ mảnh bao gồm chủ yếu protein actin có một đầu gắn với đĩa Z. Chúng là các tơ duy nhất có ở vùng đĩa I của tơ cơ và chồng lên các tơ dày nằm ở khu vực đĩa A. Các tơ dày cấu tạo từ loại protein myosin. Trong vùng H chỉ có các sợ dày. Kết quả đo sợ cơ co dưới kính hiển vi điện tử cho thấy chiều rộng của vùng H giảm đi trong khi chiều dài của các tơ dày và tơ mỏng vẫn không thay đổi . Như vậy trong khi cơ co các cơ trược lên nhau như đã mô tả trong hình vẽ. Đó chính là cơ chế của thuyết sợi trượt của quá trình co cơ. Khởi động sự co cơ: Lực tạo ra sực co cơ phục thuộc vào sự hình thành cầu nối ngang giữa các phân tử actin và myosin. Các cầu nối giữa các sợi được hình thành chỉ khi có mặt ATP. ATP không phải là chất duy nhất cần thiết cho quá trình co cơ mà thực tế ion Ca2+ cũng rất cần, thiếu Ca2+ quá trình co cơ sẽ ngừng lại. Mỗi một sợi cơ vân đều là một tế bào nhạy cảm với điện, nó nhận những xung thần kinh đi qua xynap gọi là nhưng tiếp xúc thần kinh-cơ. Ở những chổ tiếp xúc này, chất trung gian hóa học axetylcolin(Ach) gây ra sự khử cực màng cơ (sacrcolemma) và có thể gây ra điện thế hoạt động theo nguyên lý tất cả hay không có gì. Điện thế này lan truyền rất nhanh qua các tế bào cơ và truyền vào trong qua các ống T, cuối cùng nó đến mạng lưới nội chất cơ nơi chứa nhiều ion Ca2+ Sự có mặt của điện thế hoạt động làm giải phóng các inon này vào trong cơa tương và làm co các tơ cơ. Điện thế hoạt động được dẫn truyền nhanh đến mực tất cả các tiết cơ trong một sợi cơ đều đáp ứng một cách đồng thời. Những sợi cơ liên kết với nhau tạo thành bó nhỏ. Nhiều bó nhỏ tạo thành bó lớn, nhiều bó lớn tạo thành bắp cơ. Trong các vạch liên kết giữa các bó nhỏ, bó nhỡ và bó cơ lớn có động mạch, tĩnh mạch mao mạch bạch huyết và dây thần kinh. Nhờ có gân nên cơ được đính vào cùng với xương hình thành cơ quan vận động Mô cơ vân: KẾT LUẬN: Cơ vân hay còn gọi là cơ xương, cơ co chủ động. Có cấu trúc gồm các sợi cơ là hợp bào từ nhiều tế bào cơ, nhiều nhân nằm ở lớp ngoại vi cơ tương. Kích thước: dài 1mm-30cm, đường kính 10-100 µm. Sinh lý: co nhanh và mạnh nhưng thời gian ngắn, giai đoạn trơ ngắn nên có cơ tương. Cơ vân thì bám vào xương, các cơ dưới da, cơ hoành và thích hợp với những động tác co cơ nhanh và mạnh, làm cho cơ thể vận động, được điều khiển bởi các nơ ron vận động của hệ thần kinh trung ương. Cám ơn cô và các bạn đã lắng nghe ! 

File đính kèm:

  • pptxmo co van.pptx
Bài giảng liên quan