Bài giảng môn Ngữ Văn 6 - Tiết 92: Phương pháp tả người

Đoạn 2:

 Cai Tứ là một người đàn ông thấp và gầy, tuổi độ bốn lăm, năm mươi. Mặt lão vuông nhưng hai má hóp lại. Dưới cặp lông mày lổm chổm trên gò xương, lấp lánh đôi mắt gian hùng. Mũi lão gồ sống mương dòm xuống bộ râu mép lúc nào cũng hình như cố giấu giếm, đậy điệm cái mồm toe toét tối om như cửa hang, trong đó đỏm đang mấy chiếc răng vàng hợm của.

 -(Lan Kh

ppt24 trang | Chia sẻ: lieuthaitn11 | Lượt xem: 541 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng môn Ngữ Văn 6 - Tiết 92: Phương pháp tả người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn hãy click vào nút TẢi VỀ
Kính chào quý thõ̀y cụ tham dự tiờ́t học ngữ vănHội giảng giáo viên dạy giỏi cấp tỉnhKhánh HòaCõu hỏi kiểm tra bài cũCõu hỏi 1: Cho đoạn văn sau: “Bến cảng lỳc nào cũng đụng vui. Tàu mẹ, tàu con đậu đầy mặt nước. Xe anh, xe em tớu tớt nhận hàng về và chở hàng ra. Tất cả đều bận rộn.” 	 (Phong Thu) Đoạn văn trờn tỏc giả đó sử dụng phộp nhõn húa, hóy cho biết vỡ sao lại xỏc định như vậy? Tỏc dụng của phộp nhõn húa đú? Tiết 92: Phương pháp tả người Tìm hiểu các đoạn văn SGK/59-60-61I/ Phương pháp viết một đoạn văn, bài văn tả người:Đoạn 1: 	Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thị cuồn cuộn, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ. Dượng Hương Thư đang vượt thác khác hẳn Dượng Hương Thư ở nhà, nói năng nhỏ nhẻ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng vâng dạ dạ. -(Võ Quảng)- Đoạn 2: 	Cai Tứ là một người đàn ông thấp và gầy, tuổi độ bốn lăm, năm mươi. Mặt lão vuông nhưng hai má hóp lại. Dưới cặp lông mày lổm chổm trên gò xương, lấp lánh đôi mắt gian hùng. Mũi lão gồ sống mương dòm xuống bộ râu mép lúc nào cũng hình như cố giấu giếm, đậy điệm cái mồm toe toét tối om như cửa hang, trong đó đỏm đang mấy chiếc răng vàng hợm của. -(Lan Khai)-Đoạn 3: Ông đô già người sở tại, khăn chùng, áo dài ngồi cầm trịch, giơ cao chiếc dùi trống sơn son gõ mạnh xuống mặt trống ba tiếng thật đanh, thật giòn tỏ ý nhận lời. Quắm Đen quay ra đứng giữa xới. Ngay lúc ấy, ông Cản Ngũ cũng từ trên thềm cao bước xuống. Tiếng reo hò bốn phía tức thì nổi lên ầm ầm. Ngay nhịp trống đầu, Quắm Đen đã lăn xả vào ông Cản Ngũ đánh ráo riết. Rõ ràng là anh muốn dùng cái sức lực đương trai của mình lấn lướt ông ta và muốn hạ ông ta rất nhanh bằng những thế đánh thật lắt léo, hóc hiểm. Anh vờn tả, đánh hữu, dứ trên, đánh dưới, thoắt biến, thoắt hoá khôn lường. Trái lại, ông Cản Ngũ thì xem ra có vẻ lại lờ ngờ, chậm chạp; dường như ông lúng túng trước những đòn đánh liên tiếp của Quắm Đen. Hai tay ông lúc nào cũng thấy dang rộng ra, để sát xuống mặt đất, xoay xoay chống đỡ. Keo vật xem chán ngắt []. Ông Cản Ngũ bỗng bước hụt, mất đà chúi xuống. Quắm Đen đã như một con cắt luồn qua hai cánh tay ông Cản Ngũ ôm lấy một bên chân ông, bốc lên. Người xem bốn phía xung quanh reo hò ồ cả lên. Thôi thế là ông Cản Ngũ ngã rồi, nhất định ngã rồi. Có khoẻ bằng voi thì cũng phải ngã. Tiếng trống vật dồn lên, gấp rút, giục giã. Ông Cản Ngũ vẫn chưa ngã. Ông đứng như cây trồng giữa xới trước những cặp mắt kinh dị của người xem. Còn Quắm Đen thì đang loay hoay gò lưng lại, không sao bê nổi cái chân ông Cản Ngũ. Cái chân tựa bằng cây cột sắt, chứ không phải là chân người nữa. Ông Cản Ngũ vẫn đứng nghiêng mình nhìn Quắm Đen mồ hôi, mồ kê nhễ nhại dưới chân. Lúc lâu, ông mới thò tay xuống nắm lấy khố Quắm Đen nhấc bổng anh ta lên, coi nhẹ nhàng như ta giơ con ếch có buộc sợi dây ngang bụng vậy. Các đô ngồi quanh xới đều lặng đi trước thần lực ghê gớm của ông Cản Ngũ. Thôi thế là Quắm Đen bại rồi. Keo vật bị đánh bại một cách nhục nhã, cay đắng quá chừng. 	-(Kim Lân)- Tiết 92: Phương pháp tả ngườiI/ Phương pháp viết một đoạn văn, bài văn tả người: Tìm hiểu các đoạn văn SGK/59-60-61 Đoạn 1: Tả người chèo thuyền vượt thác Đoạn 2: Tả chân dung ông cai gian giảo Đoạn 3: Tả hai người trong keo vật 1) Yêu cầu: Xác định đối tượng miêu tả: Tả chân dung: đoạn 2 Tả người gắn với công việc: đoạn 1 + 3 Câu hỏi : 	Tỡm (gạch chõn) những hỡnh ảnh, chi tiết tiờu biểu ở 3 đoạn văn SGK/59-60-61Thảo Luận NhómĐoạn 1: 	Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ. Dượng Hương Thư đang vượt thác khác hẳn Dượng Hương Thư ở nhà, nói năng nhỏ nhẻ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng vâng dạ dạ. 	(Võ Quảng) Trả lời:Đoạn 1: 	Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ. Dượng Hương Thư đang vượt thác khác hẳn Dượng Hương Thư ở nhà, nói năng nhỏ nhẻ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng vâng dạ dạ. 	(Võ Quảng) Đoạn 2: 	Cai Tứ là một người đàn ông thấp và gầy, tuổi độ bốn lăm, năm mươi. Mặt lão vuông nhưng hai má hóp lại. Dưới cặp lông mày lổm chổm trên gò xương, lấp lánh đôi mắt gian hùng. Mũi lão gồ sống mương dòm xuống bộ râu mép lúc nào cũng hình như cố giấu giếm, đậy điệm cái mồm toe toét tối om như cửa hang, trong đó đỏm đang mấy chiếc răng vàng hợm của. (Lan Khai)Trả lời:Đoạn 2: 	Cai Tứ là một người đàn ông thấp và gầy, tuổi độ bốn lăm, năm mươi. Mặt lão vuông nhưng hai má hóp lại. Dưới cặp lông mày lổm chổm trên gò xương, lấp lánh đôi mắt gian hùng. Mũi lão gồ sống mương dòm xuống bộ râu mép lúc nào cũng hình như cố giấu giếm, đậy điệm cái mồm toe toét tối om như cửa hang, trong đó đỏm đang mấy chiếc răng vàng hợm của. (Lan Khai)Đoạn 3: Ông đô già người sở tại, khăn chùng, áo dài ngồi cầm trịch, giơ cao chiếc dùi trống sơn son gõ mạnh xuống mặt trống ba tiếng thật đanh, thật giòn tỏ ý nhận lời. Quắm Đen quay ra đứng giữa xới. Ngay lúc ấy, ông Cản Ngũ cũng từ trên thềm cao bước xuống. Tiếng reo hò bốn phía tức thì nổi lên ầm ầm. Ngay nhịp trống đầu, Quắm Đen đã lăn xả vào ông Cản Ngũ đánh ráo riết. Rõ ràng là anh muốn dùng cái sức lực đương trai của mình lấn lướt ông ta và muốn hạ ông ta rất nhanh bằng những thế đánh thật lắt léo, hóc hiểm. Anh vờn tả, đánh hữu, dứ trên, đánh dưới, thoắt biến, thoắt hoá khôn lường. Trái lại, ông Cản Ngũ thì xem ra có vẻ lại lờ ngờ, chậm chạp; dường như ông lúng túng trước những đòn đánh liên tiếp của Quắm Đen. Hai tay ông lúc nào cũng thấy dang rộng ra, để sát xuống mặt đất, xoay xoay chống đỡ. Keo vật xem chán ngắt []. Ông Cản Ngũ bỗng bước hụt, mất đà chúi xuống. Quắm Đen đã như một con cắt luồn qua hai cánh tay ông Cản Ngũ ôm lấy một bên chân ông, bốc lên. Người xem bốn phía xung quanh reo hò ồ cả lên. Thôi thế là ông Cản Ngũ ngã rồi, nhất định ngã rồi. Có khoẻ bằng voi thì cũng phải ngã. Tiếng trống vật dồn lên, gấp rút, giục giã. Ông Cản Ngũ vẫn chưa ngã. Ông đứng như cây trồng giữa xới trước những cặp mắt kinh dị của người xem. Còn Quắm Đen thì đang loay hoay gò lưng lại, không sao bê nổi cái chân ông Cản Ngũ. Cái chân tựa bằng cây cột sắt, chứ không phải là chân người nữa. Ông Cản Ngũ vẫn đứng nghiêng mình nhìn Quắm Đen mồ hôi, mồ kê nhễ nhại dưới chân. Lúc lâu, ông mới thò tay xuống nắm lấy khố Quắm Đen nhấc bổng anh ta lên, coi nhẹ nhàng như ta giơ con ếch có buộc sợi dây ngang bụng vậy. Các đô ngồi quanh xới đều lặng đi trước thần lực ghê gớm của ông Cản Ngũ. Thôi thế là Quắm Đen bại rồi. Keo vật bị đánh bại một cách nhục nhã, cay đắng quá chừng. 	-(Kim Lân)-Đoạn 3: Ông đô già người sở tại, khăn chùng, áo dài ngồi cầm trịch, giơ cao chiếc dùi trống sơn son gõ mạnh xuống mặt trống ba tiếng thật đanh, thật giòn tỏ ý nhận lời. Quắm Đen quay ra đứng giữa xới. Ngay lúc ấy, ông Cản Ngũ cũng từ trên thềm cao bước xuống. Tiếng reo hò bốn phía tức thì nổi lên ầm ầm. Ngay nhịp trống đầu, Quắm Đen đã lăn xả vào ông Cản Ngũ đánh ráo riết. Rõ ràng là anh muốn dùng cái sức lực đương trai của mình lấn lướt ông ta và muốn hạ ông ta rất nhanh bằng những thế đánh thật lắt léo, hóc hiểm. Anh vờn tả, đánh hữu, dứ trên, đánh dưới, thoắt biến, thoắt hoá khôn lường. Trái lại, ông Cản Ngũ thì xem ra có vẻ lại lờ ngờ, chậm chạp; dường như ông lúng túng trước những đòn đánh liên tiếp của Quắm Đen. Hai tay ông lúc nào cũng thấy dang rộng ra, để sát xuống mặt đất, xoay xoay chống đỡ. Keo vật xem chán ngắt []. Ông Cản Ngũ bỗng bước hụt, mất đà chúi xuống. Quắm Đen đã như một con cắt luồn qua hai cánh tay ông Cản Ngũ ôm lấy một bên chân ông, bốc lên. Người xem bốn phía xung quanh reo hò ồ cả lên. Thôi thế là ông Cản Ngũ ngã rồi, nhất định ngã rồi. Có khoẻ bằng voi thì cũng phải ngã. Tiếng trống vật dồn lên, gấp rút, giục giã. Ông Cản Ngũ vẫn chưa ngã. Ông đứng như cây trồng giữa xới trước những cặp mắt kinh dị của người xem. Còn Quắm Đen thì đang loay hoay gò lưng lại, không sao bê nổi cái chân ông Cản Ngũ. Cái chân tựa bằng cây cột sắt, chứ không phải là chân người nữa. Ông Cản Ngũ vẫn đứng nghiêng mình nhìn Quắm Đen mồ hôi, mồ kê nhễ nhại dưới chân. Lúc lâu, ông mới thò tay xuống nắm lấy khố Quắm Đen nhấc bổng anh ta lên, coi nhẹ nhàng như ta giơ con ếch có buộc sợi dây ngang bụng vậy. Các đô ngồi quanh xới đều lặng đi trước thần lực ghê gớm của ông Cản Ngũ. Thôi thế là Quắm Đen bại rồi. Keo vật bị đánh bại một cách nhục nhã, cay đắng quá chừng. 	-(Kim Lân)-Trả lời: Tiết 92: Phương pháp tả ngườiI/ Phương pháp viết một đoạn văn, bài văn tả người: Tìm hiểu các đoạn văn SGK/59-60-61 Đoạn 1: Tả người chèo thuyền vượt thác Đoạn 2: Tả chân dung ông cai gian giảo Đoạn 3: Tả hai người trong keo vật 1) Yêu cầu: Xác định đối tượng cần tả: Tả chân dung: đoạn 2 Tả người gắn với công việc: đoạn 1 + 3 Quan sát lựa chọn chi tiết tiêu biểuTrả lời:Đoạn 1: 	Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ. Dượng Hương Thư đang vượt thác khác hẳn Dượng Hương Thư ở nhà, nói năng nhỏ nhẻ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng vâng dạ dạ. 	(Võ Quảng) Đoạn 2: 	Cai Tứ là một người đàn ông thấp và gầy, tuổi độ bốn lăm, năm mươi. Mặt lão vuông nhưng hai má hóp lại. Dưới cặp lông mày lổm chổm trên gò xương, lấp lánh đôi mắt gian hùng. Mũi lão gồ sống mương dòm xuống bộ râu mép lúc nào cũng hình như cố giấu giếm, đậy điệm cái mồm toe toét tối om như cửa hang, trong đó đỏm đang mấy chiếc răng vàng hợm của. (Lan Khai) Tiết 92: Phương pháp tả ngườiI/ Phương pháp viết một đoạn văn, bài văn tả người: Tìm hiểu các đoạn văn SGK/59-60-61 Đoạn 1: Tả người chèo thuyền vượt thác Đoạn 2: Tả chân dung ông cai gian giảo Đoạn 3: Tả hai người trong keo vật 1) Yêu cầu: Xác định đối tượng cần tả: Tả chân dung: đoạn 2 Tả người gắn với công việc: đoạn 1 + 3 Quan sát lựa chọn chi tiết tiêu biểu2) Bố cục của bài văn tả người: Đoạn 3: SGK/60-61 Trình bày kết quả quan sát theo một thứ tựĐoạn 3: Ông đô già người sở tại, khăn chùng, áo dài ngồi cầm trịch, giơ cao chiếc dùi trống sơn son gõ mạnh xuống mặt trống ba tiếng thật đanh, thật giòn tỏ ý nhận lời. Quắm Đen quay ra đứng giữa xới. Ngay lúc ấy, ông Cản Ngũ cũng từ trên thềm cao bước xuống. Tiếng reo hò bốn phía tức thì nổi lên ầm ầm. Ngay nhịp trống đầu, Quắm Đen đã lăn xả vào ông Cản Ngũ đánh ráo riết. Rõ ràng là anh muốn dùng cái sức lực đương trai của mình lấn lướt ông ta và muốn hạ ông ta rất nhanh bằng những thế đánh thật lắt léo, hóc hiểm. Anh vờn tả, đánh hữu, dứ trên, đánh dưới, thoắt biến, thoắt hoá khôn lường. Trái lại, ông Cản Ngũ thì xem ra có vẻ lại lờ ngờ, chậm chạp; dường như ông lúng túng trước những đòn đánh liên tiếp của Quắm Đen. Hai tay ông lúc nào cũng thấy dang rộng ra, để sát xuống mặt đất, xoay xoay chống đỡ. Keo vật xem chán ngắt []. Ông Cản Ngũ bỗng bước hụt, mất đà chúi xuống. Quắm Đen đã như một con cắt luồn qua hai cánh tay ông Cản Ngũ ôm lấy một bên chân ông, bốc lên. Người xem bốn phía xung quanh reo hò ồ cả lên. Thôi thế là ông Cản Ngũ ngã rồi, nhất định ngã rồi. Có khoẻ bằng voi thì cũng phải ngã. Tiếng trống vật dồn lên, gấp rút, giục giã. Ông Cản Ngũ vẫn chưa ngã. Ông đứng như cây trồng giữa xới trước những cặp mắt kinh dị của người xem. Còn Quắm Đen thì đang loay hoay gò lưng lại, không sao bê nổi cái chân ông Cản Ngũ. Cái chân tựa bằng cây cột sắt, chứ không phải là chân người nữa. Ông Cản Ngũ vẫn đứng nghiêng mình nhìn Quắm Đen mồ hôi, mồ kê nhễ nhại dưới chân. Lúc lâu, ông mới thò tay xuống nắm lấy khố Quắm Đen nhấc bổng anh ta lên, coi nhẹ nhàng như ta giơ con ếch có buộc sợi dây ngang bụng vậy. Các đô ngồi quanh xới đều lặng đi trước thần lực ghê gớm của ông Cản Ngũ. Thôi thế là Quắm Đen bại rồi. Keo vật bị đánh bại một cách nhục nhã, cay đắng quá chừng. 	-(Kim Lân)-Bố cục:Đoạn văn 3:Mở bài:Ông đô già người sở tại, khăn chùng, áo dài ngồi cầm trịch, giơ cao chiếc dùi trống sơn son gõ mạnh xuống mặt trống ba tiếng thật đanh, thật giòn tỏ ý nhận lời. Quắm Đen quay ra đứng giữa xới. Ngay lúc ấy, ông Cản Ngũ cũng từ trên thềm cao bước xuống. Tiếng reo hò bốn phía tức thì nổi lên ầm ầm.Thân bài: Ngay nhịp trống đầu, Quắm Đen đã lăn xả vào ông Cản Ngũ đánh ráo riết. Rõ ràng là anh muốn dùng cái sức lực đương trai của mình lấn lướt ông ta và muốn hạ ông ta rất nhanh bằng những thế đánh thật lắt léo, hóc hiểm. Anh vờn tả, đánh hữu, dứ trên, đánh dưới, thoắt biến, thoắt hoá khôn lường. Trái lại, ông Cản Ngũ thì xem ra có vẻ lại lờ ngờ, chậm chạp; dường như ông lúng túng trước những đòn đánh liên tiếp của Quắm Đen. Hai tay ông lúc nào cũng thấy dang rộng ra, để sát xuống mặt đất, xoay xoay chống đỡ. Keo vật xem chán ngắt []. Ông Cản Ngũ bỗng bước hụt, mất đà chúi xuống. Quắm Đen đã như một con cắt luồn qua hai cánh tay ông Cản Ngũ ôm lấy một bên chân ông, bốc lên. Người xem bốn phía xung quanh reo hò ồ cả lên. Thôi thế là ông Cản Ngũ ngã rồi, nhất định ngã rồi. Có khoẻ bằng voi thì cũng phải ngã. Tiếng trống vật dồn lên, gấp rút, giục giã. Ông Cản Ngũ vẫn chưa ngã. Ông đứng như cây trồng giữa xới trước những cặp mắt kinh dị của người xem. Còn Quắm Đen thì đang loay hoay gò lưng lại, không sao bê nổi cái chân ông Cản Ngũ. Cái chân tựa bằng cây cột sắt, chứ không phải là chân người nữa. Ông Cản Ngũ vẫn đứng nghiêng mình nhìn Quắm Đen mồ hôi, mồ kê nhễ nhại dưới chân. Lúc lâu, ông mới thò tay xuống nắm lấy khố Quắm Đen nhấc bổng anh ta lên, coi nhẹ nhàng như ta giơ con ếch có buộc sợi dây ngang bụng vậy. Kết bài: Các đô ngồi quanh xới đều lặng đi trước thần lực ghê gớm của ông Cản Ngũ. Thôi thế là Quắm Đen bại rồi. Keo vật bị đánh bại một cách nhục nhã, cay đắng quá chừng. Tiết 92: Phương pháp tả ngườiI/ Phương pháp viết một đoạn văn, bài văn tả người: Tìm hiểu các đoạn văn SGK/59-60-61 Đoạn 1: Tả người chèo thuyền vượt thác Đoạn 2: Tả chân dung ông cai gian giảo Đoạn 3: Tả hai người trong keo vật 1) Yêu cầu: Xác định đối tượng cần tả: Tả chân dung: đoạn 2 Tả người gắn với công việc: đoạn 1 + 3 Quan sát lựa chọn chi tiết tiêu biểu2) Bố cục của bài văn tả người: Đoạn 3: SGK/60-61- Mở bài: Giới thiệu keo vật- Thân bài: Miêu tả chi tiết keo vật- Kết bài: Nêu cảm nghĩ và nhận xét về keo vật Ghi nhớ: SGK/61-62II/ Luyện tập:1) Bài tập 1: SGK/62 Trình bày kết quả quan sát theo một thứ tựThảo luận nhóm	Bài tập 1: Hãy nêu các chi tiết tiêu biểu mà em sẽ lựa chọn khi miêu tả các đối tượng sau đây:Một em bé chừng 4 đến 5 tuổi.Cô giáo của em đang say sưa giảng bài trên lớp.Nhóm 1+2Nhóm 3+4 Tiết 92: Phương pháp tả ngườiI/ Phương pháp viết một đoạn văn, bài văn tả người: Tìm hiểu các đoạn văn SGK/59-60-61 Đoạn 1: Tả người chèo thuyền vượt thác Đoạn 2: Tả chân dung ông cai gian giảo Đoạn 3: Tả hai người trong keo vật 1) Yêu cầu: Xác định đối tượng miêu tả: Tả chân dung: đoạn 2 Tả người gắn với công việc: đoạn 1 + 3 Quan sát lựa chọn chi tiết tiêu biểu2) Bố cục của bài văn tả người: Đoạn 3: SGK/60-61- Mở bài: Giới thiệu keo vật- Thân bài: Miêu tả chi tiết keo vật- Kết bài: Nêu cảm nghĩ và nhận xét về keo vật Ghi nhớ: SGK/61-62II/ Luyện tập:1) Bài tập 1: SGK/622) Bài tập 2: SGK/62 a) Mở bài:b) Thân bài:- Tả ngoại hình: Trạc tuổi, tầm vóc (cao hay thấp), dáng điệu, nét mặt, đôi mắt. - Cử chỉ, hành động: Chú ý tả các cử chỉ, động tác, lời giảng, việc làm cụ thể c) Kết bài: Cảm nghĩ của em về cô giáo 3) Bài tập 3: SGK/62Giới thiệu cô giáo dạy môn gì, vào tiết mấy, ngày nào? Trình bày kết quả quan sát theo một thứ tự1. Đồng tụ2. tượng hai ông Đá Rãi “Trên thềm cao, ông Cản Ngũ ngồi xếp bằng trên chiếu đậu trắng, cạp điều. Ông ngồi một mình một chiếu; người ông đỏ như (..1..), to lớn, lẫm liệt, nhác trông không khác gì (..2..) ở trong đền. Đầu ông buộc một vuông khăn màu xanh lục giữ tóc, mình trần, đóng khố bao khăn vát.” (Theo Kim Lân)Trả lời:Ông Cản Ngũ Chuẩn bị vào xới vật.Bài 3/62 : 	 Đoạn văn sau đã bị xoá đi hai chỗ trong ngoặc (). Nếu viết, em sẽ viết vào chỗ trống đó như thế nào? Em thử đoán xem ông Cản Ngũ được miêu tả trong tư thế chuẩn bị làm việc gì? Tiết 92: Phương pháp tả ngườiI/ Phương pháp viết một đoạn văn, bài văn tả người: Tìm hiểu các đoạn văn SGK/59-60-61 Đoạn 1: Tả người chèo thuyền vượt thác Đoạn 2: Tả chân dung ông cai gian giảo Đoạn 3: Tả hai người trong keo vật 1) Yêu cầu: Xác định đối tượng cần tả: Tả chân dung: đoạn 2 Tả người gắn với công việc: đoạn 1 + 3 Quan sát lựa chọn chi tiết tiêu biểu2) Bố cục của bài văn tả người: Đoạn 3: SGK/60-61- Mở bài: Giới thiệu keo vật- Thân bài: Miêu tả chi tiết keo vật- Kết bài: Nêu cảm nghĩ và nhận xét về keo vật Ghi nhớ: SGK/61-62II/ Luyện tập:1) Bài tập 1: SGK/622) Bài tập 2: SGK/62a) Mở bài:b) Thân bài:- Tả ngoại hình: Trạc tuổi, tầm vóc (cao hay thấp), dáng điệu, nét mặt, đôi mắt. - Cử chỉ, hành động: Chú ý tả các cử chỉ, động tác, lời giảng, việc làm cụ thể c) Kết bài: Cảm nghĩ của em về cô giáo 3) Bài tập 3: SGK/62Giới thiệu cô giáo dạy môn gì, vào tiết mấy, ngày nào?Hướng dẫn về nhà: Học thuộc ghi nhớ, bài học. Hoàn thành bài tập 2 Tự tả chân dung mình từ 6-8 câu Soạn bài:“Đêm nay Bác không ngủ” - Đọc kỹ bài thơ tập đọc diễn cảm. - Trả lời các câu hỏi phần đọc hiểu văn bản SGK/67. -Kể tóm tắt diễn biến câu chuyện bằng lời của Anh đội viên. Trình bày kết quả quan sát theo một thứ tựGiờ học kết thỳc. Cảm ơn cỏc thầy cụ giỏo đó tới dự!Giờ học kết thỳc Cảm ơn cỏc thầy cụ đó tới dự!

File đính kèm:

  • pptbai_giang_mon_ngu_van_6_tiet_92_phuong_phap_ta_nguoi.ppt