Bài giảng Ngữ văn 10 - Tiết: Nỗi thương mình
Chỉ được sống thật với mình “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh”- Cuộc sống đoạ đày, không làm chủ. Mỗi lúc tách ra, thoát được hoàn cảnh lại thảng thốt “Giật mình” vì không thể quen sự dơ dáy chốn lầu xanh.
Tủi thân, tủi phận:
Mình lại thương mình.xót xa”
So sánh thấm buồn:
Trước đây: phong gấm rủ là (Con nhà nề nếp “ Êm đềm trướng rủ.”)
Nỗi thương mình Giáo viên soạn giảng: Nguyễn Kim AnhNgữ văn 10 I- Vị trí đoạn trích: - Gần giữa“Truyện Kiều” + Kiều bị bắt buộc tiếp khách làng chơi. Kiều phải ở chốnlầu xanh+ Từ cõu (cõu 1229- 1248 / 3254) + Dấn thân vào nơi ô trọc mà bản thân nàng rất ghê sợ.+ Sau khi mắc mưu Sở Khanh và Tú bà. Niềm đau Thuý Kiều bị mắc bẫy* Tâm trạng Thuý KiềuĐoạn 1: Cảnh chốn lầu xanh Đoạn 2: Thuý Kiều và những cung bậc niềm đauGợi ý tỡm bố cụcTrả lời:Chốn lầu xanh 2. Kiều và những cung bậc niềm đau (16 câu)1. Cảnh chốn lầu xanh (4 câu)Biết bao bướm lả ong lơi,Cuộc say đầy thỏng, trận cười suốt đờm.Dập dỡu lỏ giú cành chim,Sớm đưa Tống Ngọc tối tỡm Trường Khanh.Khi tỉnh rượu lỳc tàn canh,Giật mỡnh mỡnh lại thương mỡnh xút xa .Khi sao phong gấm rủ là,Giờ sao tan tỏc như hoa giữa đường.Mặt sao dày giú dạn sương,Thõn sao bướm chỏn, ong chường bấy thõn !Mặc người mưa Sở mõy Tần,Những mỡnh nào biết cú xuõn là gỡ.Đũi phen giú tựa, hoa kề,Nửa rốm tuyết ngậm bốn bề trăng thõu .Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,Người buồn cảnh cú vui đõu bao giờ ?Đũi phen nột vẽ, cõu thơ,Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa,Vui là vui gượng kẻo là,Ai tri õm đú mặn mà với ai ? Cảnh chốn lầu xanh (4 câu thơ đầu)II. Bố cục: Chia làm 2 đoạn2. Thuý Kiều và những cung bậc niềm đau (16 câu tiếp)III- Phân tích:1 Cảnh chốn lầu xanh:“Sớm đưa Tống Ngọc tối tỡm Trường Khanh”: Người ở lầu xanh cũng khụng cú tỡnh cảm và gắn bú gỡ. => Chuyện nghề nghiệp ở chốn trăng hoa. Mật độ, tần số ong bướm, lả lơi ở chốn giả dối, chơi bời. (nghệ thuật tỏch,ghộp từ )-“Cuộc say đầy thỏng, trận cười suốt đờm”:-“Biết bao bướm lả ong lơi”: - “Dập dỡu lỏ giú cành chim” : Khụng phải dập dỡu của tỡnh cảm mà hời hợt thoảng qua như gió đùa lá, đậu rồi bay như chim ghé cành cây. Đến rồi thụi.* Người trọng tỡnh cảm như Kiều bị đẩy vào chốn “buụn phấn bỏn hương” là đọa đày !liờn miờnKhỏch đến mua vui – vô tình 2. Kiều và những cung bậc niềm đau:Chỉ được sống thật với mình “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh”- Cuộc sống đoạ đày, không làm chủ. Mỗi lúc tách ra, thoát được hoàn cảnh lại thảng thốt “Giật mình” vì không thể quen sự dơ dáy chốn lầu xanh. + Trước đây: phong gấm rủ là (Con nhà nề nếp “ Êm đềm trướng rủ...”)+ Hiện tại: tan tác như hoa giữa đường ( bị giày xéo, chà đạp)- Kiều thảng thốt vỡ hoàn cảnh lâm phải:“Mình lại thương mình...xót xa”-Tủi thân, tủi phận:- So sánh thấm buồn:-Kiều tự ghê sợ cuộc sống của mình ở chốn ô trọc:-> Nghệ thuật tách và ghép từ tạo hiệu quả mới. Thuý Kiều tự ghê sợ, xót xa nhưng Nguyễn Du có phần nương nhẹ vì cảm thương nhân vật nên không để: mặt dày dạn gió sương, thân bướm ong chán chường.+ Thân sao bướm chán ong chường bấy thân (bướm ong...chán chường)+ Mặt sao dày gió dạn sương, ( dày dạn...gió sương).= > Chứng tỏ Thuý Kiều đã rất đau đớn vì lâm phải một tình cảnh không thể ngờ.+ Riêng mỡnh nào có biết xuân là gỡ: Mùa xuân, tuổi xuân, niềm vui hoàn toàn xa lạ, khác biệt, đối lập với Kiều và nỗi cô đơn của nàng.- Kiều tự xót thương mỡnh:+ Nửa rèm tuyết ngậm : cảnh gần tại phòng thanh lâu (lạnh giá) bốn bề trăng thâu: cảnh xa, mênh mông đêm trường (cô đơn)* Những từ chỉ các trò vui chốn lầu hồng: gió, trăng, hoa, câu thơ, cung cầm, nước cờ... liên tiếp cho thấy bấy nhiêu thú vui không hề có giá trị gỡ với Kiều. “ Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ! ” -> Đây cũng là lúc nguyễn Du đưa ra triết lý thấm thía, luôn đúng với tình cảm thực của con người:+ Ở chốn phù hoa bên ngoài, ô trọc bên trong, Kiều phải sống nỗi vui gượng, buồn sõu. Lạc lừng khi khỏt khao tri õm ở chốn hời hợt, đoạ đày :“ Vui là vui gượng kẻo là Ai tri õm đú mặn mà với ai ”“Ai tri âm đó mặn mà với ai?”: Kiều thấm thía sự giả tạo trong vẻ bề ngoài của hầu hết những người gặp ở chốn lầu xanh cũng giống như cảnh nơi này. Không ai hiểu nỗi lòng của Thuý kiều, chỉ có những giày vò cả thể xác lẫn tinh thần. Đó là hoàn cảnh ô trọc, giả dối. Nghệ thuật: Sử dụng rất thành công những từ ngữ đối lập chỉ chốn ăn chơi không hề ăn nhập gì với nỗi khổ đã đày đoạ Kiều. -“vui gượng...”: Không có niềm vui chỉ có sự gượng gạo bên ngoài để tránh những rắc rối hành hạ của Tú bà ( kẻo là...)Nguyễn Du thấu hiểu nỗi đau đớn, tủi hổ, cô lẻ và xót xa của Kiều ở chốn lầu xanh. Cảnh lầu xanh > < Hồn người trong sạch. * Từ cảm giác tự xót thương bẽ bàng đến sự ai oán vỡ trời, vỡ xã hội tàn bạo đoạ đày không thương xót. Đầy thỏng - suốt đờmSớm đưa - tối tỡmKhi sao - giờ saoNửa rốm - bốn bềCảnh - Người Trong nguyệt - dưới hoaPhép đối:IV. Tổng kết:-Nguyễn Du đã thể hiện thành công tâm trạng của Kiều trong thời đoạn đau thương nhất đối với người con gái có đạo đức phải vào chốn lầu xanh đen bạc. Vì Kiều là người con gái sâu sắc nên đau đớn ở nhiều cung bậc (Thảng thốt, ghê sợ cuộc sống ô trọc, tự xót thương mình...). - Nghệ thuật diễn tả tâm lý nhân vật, Nghệ thuật tả cảnh đối lập với tâm trạng của con người. Những phép đối thành công: ngoại cảnh-nội tâm, sự giả dối chốn trăng hoa và niềm khát khao tri âm...
File đính kèm:
- 29. Noi thuong minh.ppt