Bài giảng Ngữ văn 12 - Tiết số 48: Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận

I- Lỗi liên quan đến việc nêu luận điểm

 

Yêu cầu: Tìm hiểu những đoạn văn sau:

 

Cảnh vật trong bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến thật là vắng vẻ. Ngõ trúc quanh co, sóng nước gợn tí, lá vàng đưa vèo, chiếc thuyền bé tẻo teo Cảnh vật dường như ngưng đọng, im lìm. Bởi vậy, nét bút của Nguyễn Khuyến đã tạo dựng thành công cảnh sắc im ắng ấy.

 

ppt23 trang | Chia sẻ: huong20 | Lượt xem: 1010 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Ngữ văn 12 - Tiết số 48: Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn hãy click vào nút TẢi VỀ
Sở giáo dục và đào tạo Yên BáiTrường THPT Hoàng Quốc ViệtBài giảng điện tửNgữ Văn 12Lớp 12CNgười thực hiện: Trần Danh ThuầnTổ: Văn – GDCDNgày 26 - 11 – 2009Tiết 48CHỮA LỖI LẬP LUẬN TRONG VĂN NGHỊ LUẬNĐọc kĩ đề bài.Tìm những lỗi lập luận trong các đọan văn.Sửa lỗi lập luận để đoạn văn mạch lạc, chặt chẽ.I- Lỗi liên quan đến việc nêu luận điểmYêu cầu: Tìm hiểu những đoạn văn sau:Cảnh vật trong bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến thật là vắng vẻ. Ngõ trúc quanh co, sóng nước gợn tí, lá vàng đưa vèo, chiếc thuyền bé tẻo teo Cảnh vật dường như ngưng đọng, im lìm. Bởi vậy, nét bút của Nguyễn Khuyến đã tạo dựng thành công cảnh sắc im ắng ấy.Cho biết lỗi đã mắc phải và chữa lại?Lỗi: Luận điểm chưa rõ ràng, nội dung trùng lặp mà không có sự nhấn mạnh hay phát triển ý.( vắng vẻ, ngưng đọng im lìm, im ắng)Sửa: Bao trùm lên bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến là không gian lặng lẽ và mọi vật nhỏ bé đến bất ngờ.bởi vậy, cảnh sắc của làng quê nghèo ở đồng bằng bắc bộ rất đặc trưng ở Việt Namb) “Nam nhi vị liễu công danh trái, Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.”Người làm trai thời xưa luôn mang theo bên mình món nợ công danh, mang theo khao khát “vinh quy bái tổ”, “chức cao vọng trọng” để làm rạng danh tổ tiên, để mở mày mở mặt với thiên hạ Phạm Ngũ Lão mang theo bên mình món nợ công danh, nhưng qua hai câu thơ của ông có thể thấy cách nhìn, hoài bão và khao khát của ông cao hơn, xa hơn hẳn kẻ tầm thường. Theo ông, người làm trai phải trả món nợ công danh để không hổ thẹn với người đi trước mình, những người xung quanh mình và quan trọng hơn là không hổ thẹn với chính bản thân mình.Cho biết lỗi đã mắc phải và chữa lại?Lỗi: Luận điểm nêu ra dài dòng, rườm rà, không rõ ràng, không trình bày được đúng bản chất của vấn đề.Sửa: Người đời xưa đều muốn lập công để thành danh, đi học để đi thi, đỗ đạt để có ngày “vinh quy bái tổ”, với quyền cao chức trọng để làm rạng danh tổ tiên, mở mày mở mặt với thiên hạ.hoặc: “Người làm trai thời xưa luôn mang theo bên mình món nợ công danh”c) Văn học dân gian ra đời từ thời xa xưa nhưng đến nay vẫn tiếp tục phát triển. Nhắc đến nó, người ta hình dung ngay ra một cuốn sách bách khoa về cuộc sống. Tiếp nhận văn học dân gian là tiếp nhận tri thức hữu ích từ cuộc sống. Không cần lí lẽ, hình ảnh quá trừu tượng mà chính là kinh nghiệm từ cuộc sống phong phú sinh động đã khiến văn học dân gian có sức hấp dẫn. Ví như câu tục ngữ: “Cơn đằng đông vừa trông vừa chạy - Cơn đằng nam vừa làm vừa chơi”. Câu tục ngữ đã đúc kết được kinh nghiệm từ thực tế: Cơn mưa từ đằng đông kéo tới thì mưa rất nhanh. Trái lại, cơn mưa đằng nam kéo đến thì rất lâu mới có mưa. Câu tục ngữ này đã giúp ích rất nhiều cho bà con nông dân.Cho biết lỗi đã mắc phải và chữa lại?Lỗi: Luận điểm không rõ ràng, nhiều luận điểm nhưng không luận điểm nào được triển khai đầy đủ, chưa logich với luận cứ nêu ra.Sửa: “Văn học dân gian là kho tàng kinh nghiệm của cha ông được đúc kết từ xưa.”Hoặc: “Văn học dân gian nhất là tục ngữ đã mang lại những bài học kinh nghiệm trong thực tiễn đời sống.”Chú ý- Luận điểm phải phù hợp với đối tượng nghị luận.- Phải dùng phương tiện ngôn ngữ phù hợp.- Chú ý tính logic, nhất quán của các luận điểm, luận cứ.II. Lỗi liên quan đến việc nêu luận cứĐọc và chỉ rõ các lỗi nêu luận cứ trong các đoạn văn, sửa chữa lại:a) “Nắng xuống, trời lên xanh bát ngát Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”Thường khi nắng chiều đã xuống thì bầu trời trở nên xanh mênh mông bát ngát, cảnh đẹp của quê hương cũng không lấp được nỗi mênh mông trống trải cô đơn trong lòng người.Lỗi: Luận cứ mơ hồ thiếu chính xác, dẫn thơ sai. Luận cứ nên là: Sự tương đồng giữa hình tượng thiên nhiên và cảm xúc của nhà thơ-tâm trạng riêng của Huy Cận, nhưng trong đó cũng hàm chứa tâm trạng chung của cái tôi thơ mới. “sâu chót vót”. Nên sửa: Ngoài không gian mặt đất, câu thơ mở hướng cho không gian ở tầng cao và cả chiều sâu của sông nước. Đó là không gian ba chiều. Đối diện với không gian ấy, con người đã buồn lại càng cảm thấy cô đơn.b) Trong lịch sử chống ngoại xâm, chúng ta thấy dân tộc ta anh hùng hào kiệt thời nào cũng có. Hai Bà Trưng phất ngọn cờ hồng khởi nghĩa đánh tan thái thú Tô Định, buộc hắn phải trốn vào đám loạn quân chạy về nước. Đất nước sau hơn hai thế kỉ bị phong kiến nước ngoài đô hộ đã giành được thắng lợi hoàn toàn.Lỗi: Luận cứ thiếu chính xác, thiếu toàn diện: “Đất nướchoàn toàn”, nên thêm các luận cứ về “dân tộc ta anh hùng hào kiệt thời nào cũng có”. Ví dụ: Bà Triệu, Lê Lợi, Nguyễn HuệNên sửa: Trong lịch sử chống ngoại xâm, dân tộc ta có nhiều anh hùng hào kiệt xuất hiện. Từ Bà Trưng, Bà Triệu phất cờ khởi nghĩa đến Lê Lợi lãnh đạo muôn dân bền bỉ kháng chiến hai mươi năm trời, buộc giặc Minh phải đầu hàng nhục nhã. Quang Trung trong chiến dịch hành quân thần tốc tiêu diệt 20 vạn quân Thanh.c) Lịch sử dân tộc ta đã ghi lại biết bao nhiêu trang sử hào hùng với những tên tuổi sáng chói muôn đời. Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán. Nguyễn Huệ đánh tan quân xâm lược nhà Thanh. Lê Lợi đại phá quân Minh. Ải Chi Lăng mãi là mồ chôn quân xâm lược. Đời Trần Hưng Đạo lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân Nguyên, giành lại nền độc lập cho đất nước. Cửa biển Bạch Đằng lập chiến công lẫy lừng non sông. Những tên tuổi đó mãi mãi sống cùng non sông đất nước.Lỗi: Luận cứ thiếu tính hệ thống, logic. Luận cứ không phù hợp với luận điểm. Sửa: Ngô Quyền-> Trần Hưng Đạo-> Lê Lợi-> Nguyễn Huệ. Còn Ải Chi Lăng và Cửa biển Bạch Đằng là địa danh không phải là tên tuổi.Chú ýCần nêu luận cứ rõ ràng, xác đáng, các dẫn chứng cụ thể cần có xuất xứ, nguồn gốc tin cậy, phù hợp với luận điểm.III. Lỗi về cách thức lập luậnYêu cầu: Xác định các lỗi về cách thức lập luận trong các đoạn văn sau:a) Từ xưa, vẻ đẹp và số phận người phụ nữ luôn là một đề tài chủ đạo trong thơ văn. Trong nền văn học trung đại Việt Nam, nhiều tác giả đã viết về đề tài này như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Dữ, Đặng Trần Côn, Nhưng người đã phản ánh một cách sâu sắc nhất bi kịch của người phụ nữ chính là Nguyễn Du.Cho biết lỗi đã mắc phải và chữa lại?Lỗi: Trình bày luận cứ thiếu logich, lộn xộn. Hệ thống luận cứ không đủ làm sáng tỏ cho luận điểm chính. Nguyễn Khuyến mới viết câu đối khóc vợ, hoặc cho cô Tư Hồng câu đối chứ chưa đặt ra số phận người phụ nữ. (nên bỏ ông ra)Sửa: Hồ Xuân Hương, Nguyễn Dữ, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểmb) Nam Cao viết nhiều về nông thôn. Lão Hạc ăn bả chó tự tử để tránh đói. Anh cu Phúc chết lặng trong xó nhà ẩm ướt, trước những đôi mắt “dại đi vì đói” của hai đứa con. Bà cái đĩ chết vì một bữa no, tức là một kiểu chết vì quá đói. Lại có cảnh đám cưới, nhưng cưới để chạy đói.Lỗi: Luận điểm không rõ ràng. Luận cứ thiếu toàn diện. Mới chỉ dừng ở việc nói “cái đói” trong các tác phẩm viết về nông thôn, nông dân.Sửa: Nam Cao viết nhiều về nông thôn, nghiêng nhiều về số phận bất hạnh của con người. Lão Hạc ăn bả chóchạy đói.c) Mùa thu là một đề tài gợi nhiều cảm hứng cho thi nhân. Chính vì thế, mùa thu đã là một thi đề quen thuộc trong thơ ca trung đại Việt Nam. Tinh tế và sâu lắng nhất phải kể đến cảnh thu với nỗi sầu muộn vô biên của Đỗ Phủ (Thu hứng). Còn trong thơ ca Việt Nam trung đại, Nguyễn Khuyến chính là nhà thơ của mùa thu làng quê với chùm thơ Thu vịnh, thu điếu, thu ẩm.Lỗi: Luận điểm không rõ ràng: phần gợi mở, dẫn dắt không giúp cho việc nêu bật luận điểm chính. Luận cứ không phù hợp với phạm vi đề tài được nêu trong câu trước: “Tinh tếcủa Đỗ Phủ”.Nên sửa:Mùa thu là đề tài gợi nhiều cảm hứng cho thi nhân. Tinh tế và sâu lắng là nỗi sầu vô biên của Đỗ Phủ trong “Thu hứng”. Thơ ca trung đại Việt Nam, phải kể đến Nguyễn Trãi mượn cây tùng chịu đựng sương, tuyết để khẳng định ý chí người quân tử. Thu về trong nếp sinh hoạt giản dị và tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá” Nỗi buồn cô đơn trống trải trong chùm Thơ thu của Nguyễn Khuyến.Tóm lại, khi viết văn nghị luận cần tránh lỗi:Thứ nhất, nêu luận điểm trùng lặp hoặc không rõ ràng, không phù hợp với bản chất của vấn đề cần giải quyết.Thứ hai, nêu luận cứ thiếu chính xác, thiếu chân thực, không đầy đủ, không liên quan mật thiết đến luận điểm cần trình bày, trùng lặp hoặc quá rườm rà.Thứ ba, lập luận mâu thuẫn, luận cứ không phù hợp với luận điểm.Chúc các em viết văn tốt hơn trong tương lai - 0902112376Lời nhắn nhủ của thầy với 12C:Hãy viết những bài văn nghị luận thật hay.Văn học chính là chất vàng mười của tâm hồn.

File đính kèm:

  • pptChua_loi_LL_trong_Van_NLuan.ppt