Chuyên đề một số biện pháp giúp học sinh viết đúng viết đẹp khối 1, 2, 3 - Lê Thị Nữ
Bạn đang xem nội dung Chuyên đề một số biện pháp giúp học sinh viết đúng viết đẹp khối 1, 2, 3 - Lê Thị Nữ, để tải tài liệu về máy bạn hãy click vào nút TẢI VỀ
CHUYÊN ĐỀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH VIẾT ĐÚNG VIẾT ĐẸP KHỐI 1, 2, 3 Người thực hiện : Lê Thị Nữ 1.Đặt vấn đề Ở bậc Tiểu học ngoài việc học các môn học khác để hoàn thiện nhân cách con người thì việc rèn chữ viết không nằm ngoài phạm vi đó. Nó giúp con người trao đổi tư tưởng tình cảm tri thức khoa học... Chữ viết đúng, đẹp là một hành trang, trang bị cho các em bước vào đời dù ở bất cứ nghề gì. Rèn chữ không những đơn thuần để chữ viết chuẩn, đúng, đẹp mà còn là để rèn người nữa. Giáo viên giúp học sinh rèn chữ viết cũng chính là để rèn nhân cách cho các em, giúp các em giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. 2. Các giải pháp: Căn cứ vào thực trạng học sinh, qua nghiên cứu tài liệu về nội dung và phương pháp dạy môn Tập viết, tôi đã tìm được một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy, giúp học sinh biết cách viết đúng mẫu. Cụ thể như sau: 3.1. Cung cấp cho học sinh những khái niệm cơ bản về đường kẻ, dòng kẻ, tọa độ viết chữ: Tọa độ chữ được xác định trên đường kẻ ngang của vở tập viết. Mỗi đơn vị dòng kẻ trong vở có 4 dòng ngang. Ta ký hiệu đường kẻ trên là số 1 các đường kẻ khác là 2,3,4,5 kể từ dưới lên trên. Cách xác định tọa độ trên khung chữ phải dựa vào đường kẻ dọc, đường kẻ ngang và ô vuông làm định hướng. Đây là một trong những điều kiện để dạy chữ viết thành một quy trình. Quy trình được thực hiện lần lượt bởi các thao tác mà hành trình ngòi bút đi qua tọa độ các chữ. Xác định tọa độ cấu tạo các chữ viết hoa đều phải căn cứ vào các ô vuông của khung chữ mẫu để phân tích cách viết. 3.2. Giúp học sinh hiểu và xác định được điểm đặt bút, điểm dừng bút, tọa độ điểm đặt hoặc dừng bút, kĩ thuật viết liền mạch, kĩ thuật lia bút, rê bút : - Điểm đặt bút: Là điểm bắt đầu khi viết một nét trong chữ cái. Điểm đặt bút có thể nằm trên đường kẻ ngang, hoặc không nằm trên đường kẻ ngang. - Điểm dừng bút: Là vị trí kết thúc của nét chữ trong một chữ cái. Điểm dừng có thể trùng với điểm đặt bút hoặc không nằm trên đường kẻ ngang. - Tọa độ điểm đặt hoặc dừng bút: Về cơ bản, tọa độ này thống nhất ở vị trí 1/3 đơn vị chiều cao chữ cái, có thể ở vị trí trên hoặc dưới đường kẻ ngang. - Viết liền mạch: Là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc của nét đứng trước tới điểm bắt đầu của nét đứng sau. Các nét bút viết liền mạch khi viết không nhấc bút. VD: a nối với m am VD: b nối với a ba x nối với inh xinh - Kỹ thuật lia bút: Để đảm bảo tốc độ trong quá trình viết một chữ cái hay viết nối các chữ cái với nhau, nét bút được thể hiện liên tục nhưng dụng cụ viết (đầu ngòi bút, phấn) không chạm vào mặt phẳng viết (giấy, bảng). Thao tác đưa bút trên không gọi là lia bút. VD: b nối với a ba : Từ b -> a không viết liền được ta viết chữ b sau đó lia bút sang điểm bắt đầu của chữ a. - Kỹ thuật rê bút: Đó là trường hợp viết đè lên theo hướng ngược lại với nét chữ vừa viết . Ở đây xảy ra trường hợp dụng cụ viết (đầu ngòi bút, phấn) chạy nhẹ từ điểm kết thúc của nét đứng trước đến điểm bắt đầu của nét liền sau. VD: Khi viết chữ ph phải viết nét thẳng của chữ sau đó không nhấc bút để viết mà rê ngược bút lên đường kẻ ngang thứ 2 Sau khi học sinh đã nắm được các khái niệm về dòng kẻ, đường kẻ, cách xác định tọa độ chữ, như trên tôi tiếp tục tiến hành một số biện pháp tiếp theo: 3.3. Rèn nề nếp chuẩn bị và sử dụng đồ dùng học tập: a. Bảng con, phấn trắng (hoặc bút dạ), khăn lau. Đề việc sử dụng các đồ dùng học tập nói trên trong giờ Tập viết đạt hiệu quả tốt, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện một số điểm sau: - Chuẩn bị bảng con, phấn, khăn lau đúng quy định: + Bảng con có dòng kẻ đồng dạng với dòng kẻ li trong vở tập viết, có độ nhám vừa phải + Phấn viết có độ dài vừa phải. + Khăn lau sạch. - Sử dụng bảng con hợp lý và đảm bảo vệ sinh: + Ngồi viết đúng tư thế. + Cầm và điều khiển viên phấn đúng cách. + Viết xong cần kiểm tra lại. Tự nhận xét và bổ sung chỗ còn thiếu. Giơ bảng ngay ngắn để giáo viên kiểm tra nhận xét. + Đọc lại chữ đã viết trước khi xoá bảng. b. Vở tập viết, bút chì, bút mực: Vở tập viết cần được giữ gìn sạch sẽ, không để quăn góc hoặc dây bẩn. Bút chì dùng cần được giữ cẩn thận đầu chì không nhọn quá hoặc dài quá để dễ viết chữ. Bút mực: sử dụng loại bút có quản, ngòi mài đầu, mực ra đều, lớp viết cùng một màu mực xanh đen. Những yêu cầu về đồ dùng tôi đã trao đổi cụ thể với phụ huynh ngay từ buổi họp phụ huynh đầu tiên của năm học. Nếu trong quá trình thực hiện em nào chưa thực hiện đúng tôi lại thường xuyên nhắc nhở phụ huynh và học sinh giúp các em làm đúng thì thôi. 3.4.Rèn cho học sinh thực hiện đúng quy định khi viết: + Tư thế ngồi viết: Đây là nhu cầu không kém phần quan trọng trong một giờ tập viết mà không ít giáo viên đã bỏ qua hoặc hướng dẫn chưa đến nơi đến chốn dẫn đến tình trạng các em ngồi viết chưa đúng tư thế (nghiêng bên phải, bên trái) cách để vở, để tay, cách cầm bút chưa khoa học, chưa hợp lý dẫn đến việc học sinh dễ mỏi dễ chán nản nên viết chữ cẩu thả, tuỳ tiện.Vì vậy cần phải hướng dẫn tư thế ngồi viết đúng quy cách cho học sinh như sau: - Tư thế thẳng lưng, không tì ngực, đầu hơi cúi, mắt cách vở 25 - 30 cm, tay phải cầm bút, tay trái tì nhẹ lên mép vở để trang viết không bi xê dịch, hai chân để song song thoải mái. Yêu cầu các em tham khảo (hình vẽ minh hoạ ở trang 2 , vở tập viết 2- tập I). Hiện nay nhiều giáo viên không chú ý hướng dẫn và rèn cho học sinh cách cầm bút, để vở nên rất nhiều em cầm bút và tư thế ngồi sai lệch rất đáng lo ngại. Vì vậy việc chỉnh sửa tư thế viết cho học sinh phải được đề cập đến thường xuyên trong từng giờ học, giờ tập viết. + Cách cầm bút : Hướng dẫn các em cầm bằng 3 ngón tay (ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa) với độ chắc vừa phải khi viết dùng ba ngón tay di chuyển bút một cách nhẹ nhàng, từ trái sang phải, cán bút nghiêng về bên phải, cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động theo, mềm mại, thoải mái. + Cách để vở: Hướng dẫn các em để vở ngay ngắn trước mặt, quan sát thấy các em làm chưa đúng nhắc nhở bắt làm lại ngay. + Cách trình bày bài: yêu cầu HS nhìn và viết thật đúng theo mẫu trong vở tập viết, viết theo hướng dẫn của cô tuỳ theo đối tượng cô yêu cầu, nếu viết sai không được tẩy xoá mà gạch chân viết sang cạnh. Công việc trên tôi đã tiến hành thường xuyên, liên tục trong tất cả các tiết học đặc biệt là tiết Tập viết. 3.5. Rèn cho học sinh viết đúng các nét cơ bản: Những em viết nét khuyết sai và xấu tôi yêu cầu các em quan sát kĩ và viết đi viết lại nét khuyết bao giờ đúng thì thôi và liên tục cho các em viết các tiếng từ ứng dụng có nét khuyết như: l, th, nh, h, anh, ách, lá lành, tháng,... Những học sinh viết thiếu nét hất thì yêu cầu các em viết lại các nét hất rồi ứng dụng viết lại các chữ có nét hất... Tất cả các nét cơ bản này tôi yêu cầu học viết thật chuẩn và viết cẩn thận, chính xác. Để dễ dàng cho việc kiểm tra, theo dõi đánh giá tôi chia các học sinh cùng viết chữ xấu một loại nét cơ bản vào thành từng nhóm đề các em có điều kiện thảo luận tìm ra nét đúng, kiểm tra học hỏi lẫn nhau. 3.6. Rèn cho học sinh viết đúng vị trí dấu thanh - Để giúp các em viết đúng vị trí dấu thanh, tôi đã hướng dẫn các em như sau: Dấu thanh: huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng được đánh ở âm chính: hoa, thuy, khoe, huệ. Khi âm chính là một âm đôi, xuất hiện trong âm tiết mở (không có âm cuối), thì dấu thanh được đánh ở yếu tố đầu của nguyên âm đôi đó: bìa, đùa, thừa Khi âm chính là một âm đôi, xuất hiện trong âm tiết đóng (có âm cuối), thì dấu thanh được đánh ở yếu tố cuối của nguyên âm đôi đó: Tiếng, vượn, buồn - Cách đặt dấu thanh cũng cần đảm bảo sự hài hòa, cân đối và mang tính thẩm mĩ. Vì thế mà các dấu thanh thường được đặt vào vị trí khoảng giữa (trên, dưới) đối với những chữ cái a, ă, o, ơ, e, i(y), u, ư. Ví dụ : tài, mỏi, vỡ, bé, rặng, *Lỗi thường gặp: Thường thì học sinh hay viết dấu thanh cao quá hoặc thấp quá so với con chữ. Trong trường hợp này, tôi nhắc các em để một khoảng trống vừa phải. Đối với những học sinh hay mắc lỗi này, tôi uốn nắn kịp thời, cụ thể, thường xuyên cho đến khi em đó sửa được mới thôi. - Riêng đối với các chữ cái â, ê, ô (có dấu mũ), các dấu thanh huyền, sắc được đặt về bên phải của dấu mũ. Ví dụ: tiếng, dấm, chuồng, *Lỗi thường gặp: Sai vị trí dấu: Khi học sinh mắc lỗi này, tôi nhắc các em nhớ lại quy tắc viết dấu thanh, yêu cầu các em viết lại ngay chữ đã sai cho đến khi các em viết đúng. 3.7. Rèn cho học sinh viết đúng, viết đẹp chữ ghi từ ngữ ứng dụng, câu, viết văn bản Sau khi học sinh đã thực hiện tốt viết đúng, đẹp các chữ ghi tiếng như đã nêu ở trên, tôi đặc biệt quan tâm nhắc nhở các em lưu ý để khoảng cách giữa các chữ sao cho đều đặn, hợp lí, thường được ước lượng bằng chiều rộng của một chữ cái o viết thường. Giữa các từ ứng dụng, các em viết theo điểm đặt bút (dấu chấm) trong các vở Tập viết. Ví dụ: Khi dạy học sinh viết câu, viết văn bản, tôi lưu ý thêm về cách viết và đặt dấu câu (dấu phẩy, dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu gạch ngang ). Bên cạnh đó, tôi còn quan tâm tới cách trình bày câu văn, câu thơ trên trang vở sao cho đều đặn, cân đối và đẹp. Khi viết chữ, tôi nhắc các em điều khiển nét bút sao cho rõ độ cứng cáp (thẳng đều) hoặc mềm mại (cong đều) ở từng con chữ. 3.8. Rèn cho học sinh kĩ năng viết thanh đậm, điều chỉnh độ thẳng, độ nghiêng của chữ Khi học sinh đã nắm được các kĩ năng viết cơ bản, viết đúng, viết đẹp rồi, tôi nâng cao hơn về kĩ thuật viết. Tôi hướng dẫn các em viết nét thanh, nét đậm ở mỗi con chữ. Các nét bút đưa lên là nét thanh. Tạo nét thanh bằng cách viết nhẹ tay, có cảm giác con chỉ lướt trên mặt giấy. Các nét bút đi xuống là nét đậm. Tạo nét đậm bằng cách viết mạnh tay hơn. Tôi cũng lưu ý các em viết độ thanh đậm phải đều tay, nét thanh viết nhẹ mà không mất nét, nét đậm vừa phải, không ấn quá mạnh tay, tránh bị cày giấy hoặc nét đậm to quá. Bên cạnh đó, tôi còn chú trọng dạy cho các em cách điều chỉnh độ thẳng, độ nghiêng của chữ. Điều chỉnh độ thẳng, độ nghiêng của chữ ta dựa vào các đường kẻ dọc trên giấy. Khi viết chữ đứng, nét đều, tôi hướng dẫn các em viết các nét sổ phải thẳng so với dòng kẻ dọc. Trọng tâm của các nét cong ở ½ đơn vị chữ. Tất cả các nét bút đưa lên hoặc đi xuống phải viết thật đều tay. Vở đặt thẳng so với mép bàn. Ngoài ra, tôi còn quan tâm tới tư thế ngồi viết và sử dụng bút để viết nét đều cũng là một yếu tố quan trọng giúp cho học sinh viết đúng yêu cầu. Khi viết chữ nghiêng, tôi hướng dẫn các em viết các nét sổ nghiêng so với dòng kẻ dọc 15 độ là vừa đẹp.Trọng tâm của các nét cong thấp xuống gần đường kẻ 1 so với chữ đứng. Vở đặt nghiêng 15 độ so với mép bàn. 3.9. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả học viết của học sinh Hiểu được đây là một yêu cầu hết sức cần thiết đối với cả giáo viên và học sinh nên trong mỗi tiết dạy học tập viết, tôi thường xuyên chấm và chữa bài cho học sinh. Qua việc chấm chữa, tôi nắm được tình hình học tập của từng học sinh về mức độ, kiến thức, kĩ năng. Thấy được những sai sót của từng học sinh, tôi nhận xét cụ thể, tỉ mỉ về từng nét chữ, về nét nối giữa các con chữ, cách viết các dấu phụ, dấu thanh, về điểm đặt bút, dừng bút, về khoảng cách giữa các chữ Sau đó chữa lại bằng phấn đỏ (mực đỏ) hoặc viết mẫu lại bằng mực đỏ để học sinh nhận ra lỗi sai của mình mà tự sửa chữa. Nhờ đó, tôi đúc rút được kinh nghiệm giảng dạy, có biện pháp bổ sung, giúp đỡ học sinh kịp thời. Bên cạnh đó, tôi nêu gương những bài học sinh viết đúng, đẹp để toàn lớp học tập cả về cách trình bày và kĩ năng viết. Tôi luôn nhấn mạnh cho các em thấy rằng mọi kết quả học tập, dù nhỏ, đều cần có sự cố gắng nhất định. Ví dụ: Khi học sinh A viết chữ m. Tôi cho các em dưới lớp nhận xét để học sinh A nhận thấy là mình đã sai về độ rộng của nét thứ hai, thứ ba, nét móc hai đầu choãi chân và học sinh đó tự sửa lại chữ của mình cho đúng: Chính kết quả đó khẳng định: Nếu tất cả học sinh đều thực hiện đúng mọi yêu cầu của giáo viên thì đều có thể viết đúng, đẹp. Từ đó, gây cho các em lòng tin, sự say mê, tinh thần phấn khởi khi học viết. Trong quá trình dạy, tôi nhận thấy: Ngoài việc chỉ ra kiến thức trọng tâm thì việc phát hiện lỗi và sửa lỗi là rất quan trọng. Việc rèn luyện kĩ năng viết đúng, viết đẹp không phải là công việc của một sớm một chiều mà đó là cả một quá trình. Nó đòi hỏi học sinh cần phải kiên trì, có hứng thú luyện chữ một cách tự giác, tích cực. Chính bởi được tự giác tham gia vào các hoạt động một cách tích cực mà các em đã hiểu sâu, nhớ lâu, vận dụng tốt kiến thức để viết đúng, viết đẹp. Vì thế mà giáo viên cần phải tạo môi trường thi đua, học hỏi, tạo không khí luyện viết chữ đẹp trong toàn lớp bằng cách tuyên dương, động viên, khuyến khích kịp thời. Bên cạnh đó giáo viên là người làm gương cho học sinh noi theo nên chữ viết của giáo viên phải đúng mẫu, rõ ràng, chính xác không được viết tùy tiện, ngẫu hứng khi chấm và ghi lời nhận xét vào bài làm, bài kiểm tra của học sinh, khi ghi sổ liên lạc cũng như viết bảng, . . . 3.10. Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh . Giáo dục kết hợp chặt chẽ giữa 3 môi trường : Gia đình – Nhà trường – Xã hội." Vì vậy việc giáo viên kết hợp với gia đình học sinh là không thể thiếu được, nó vừa mang tính lý luận đồng thời cũng hết sức thực tiễn. - Cũng ngay trong buổi họp phụ huynh đầu năm trao đổi về tình hình học tập của các em, tôi mạnh dạn cho phụ huynh xem sách vở của con mình và xem vở của một số học sinh viết đẹp, viết đúng trong lớp .Tôi nêu thêm vai trò của chữ viết trong các môn học khác, một số biện pháp rèn luyện viết chữ .Tôi đã đề ra yêu cầu để phụ huynh cùng giáo viên rèn nề nếp học tập như sau: + Hằng ngày kiểm tra sách vở của con em mình. + Nhắc nhở con em thường xuyên luyện chữ viết. + Kiểm tra việc chuẩn bị sách vở và đồ dùng học tập của con em theo thời khóa biểu . + Giáo dục con có ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi. + Thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm qua trò chuyện trực tiếp, điện thoại hoặc qua sổ liên lạc để kịp thời nhắc nhở, đôn đốc học sinh nề nếp học tập ở lớp cũng như ở nhà. - Phụ huynh học sinh đóng vai trò động viên, nhắc nhở các em thực hiện các yêu cầu đã đề ra, tránh chê bai và tuyệt đối không dùng bạo lực với các em. Nhờ sự phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh nên chất lượng học tập, chất lượng chữ viết của học sinh đã tiến bộ.
File đính kèm:
chuyen_de_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_viet_dung_viet_dep.doc



