Chuyên đề Một số kinh nghiệm khi sử dụng kênh hình trong dạy học Lịch Sử
Nhiều năm qua bức xúc trước vấn đề học sinh không hiểu gì về lịch sử
nhân loại cũng như lịch sử dân tộc mình và đặc biệt những năm gần đây tình
trạng học sinh thi vào các trường đại học tỉ lệ điểm thấp ở bộ môn Lịch sử là rất
nhiều. Điều này không chỉ riêng tôi mà rất rất nhiều giáo viên nói chung và giáo
viên bộ môn Lịch sử nói riêng, các cấp quản lí phải lưu tâm và suy nghĩ. Do đó
tôi đưa ra một vài kinh nghiệm của bản thân để góp phần mình vào sự nghiệp
chung. Việc vận dụng các phương pháp, kỹ năng khai thác kênh hình vào giảng
dạy Lịch sử, theo kinh nghiệm của bản thân tôi cùng nhiều đồng nghiệp khác đã
được tham khảo ý kiến là một việc làm rất có hiệu quả nhằm gây hứng thú cho
học sinh, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi việc học Lịch sử, tìm hiểu Lịch
sử, nhận thức Lịch sử đang có chiều hướng giảm sút, xuống cấp. Ảnh hưởng của
nền kinh tế thị trường, lối suy nghĩ, cách sống thực dụng đang tác động mạnh
mẽ đến từng học sinh cùng với sự thiếu thốn phương tiện, đồ dùng dạy học cũng
như thái độ dạy học đối phó, qua loa, đại khái của không ít giáo viên đã và đang
là những trở ngại không nhỏ đối với việc giảng dạy nói chung và dạy bộ môn
Lịch sử nói riêng.
n mới chỉ được giải thích về kênh chữ, nội dung, phương pháp mà chưa được bồi dưỡng cụ thể về kênh hình. Có nhiều kênh hình mới mà giáo viên chưa thật nắm rõ về xuất xứ cũng như nội dung của nó. Nhiều giáo viên còn ngại sử dụng kênh hình do sợ mất thời gian hoặc nếu có sử dụng thì chỉ mạng tính chất minh họa cho bài giảng nên chưa phát huy được hết hiệu quả của nó. Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học Lịch sử nói riêng, bản thân tôi xin trình bày một số vấn đề về việc: Khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử để phát huy tính tích cực của học sinh. II. Thực trạng: * Thuận lợi: Nhìn chung học sinh đều tích cực hào hứng muốn được tự mình khám phá nội dung của bản đồ, lược đồ, muốn được nêu ý nghĩa hoặc phân tích nội dung các bức tranh nên đã đưa lại hiệu quả cao trong quá trình lĩnh hội kiến 2 thức thông qua các kênh hình trong sách giáo khoa và những kênh hình mà giáo viên sưu tầm được. * Khó khăn: Ở trường THCS một số học sinh còn lười học và chưa có sự say mê môn học Lịch sử, cho nên việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử...còn yếu. Nhiều em chưa độc lập suy nghĩ để trả lời một câu hỏi mà chỉ đọc nguyên xi trong sách giáo khoa hay chỉ nêu được diễn biến sự việc mà không lí giải được vì sao nó lại diễn ra như thế hay sự kiện đó nói lên điều gì. Bởi vậy, bản thân các em nên có một phương pháp học tích cực để chiếm lĩnh kiến thức từ bài giảng của giáo viên. Mặt khác, một bộ phận không nhỏ trong giáo viên, cha mẹ học sinh và học sinh còn nhận thức không đúng về vai trò của bộ môn cho đó là môn phụ đã ảnh hưởng đến việc học tập bộ môn. B. NỘI DUNG 1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp. Nhiều năm qua bức xúc trước vấn đề học sinh không hiểu gì về lịch sử nhân loại cũng như lịch sử dân tộc mình và đặc biệt những năm gần đây tình trạng học sinh thi vào các trường đại học tỉ lệ điểm thấp ở bộ môn Lịch sử là rất nhiều. Điều này không chỉ riêng tôi mà rất rất nhiều giáo viên nói chung và giáo viên bộ môn Lịch sử nói riêng, các cấp quản lí phải lưu tâm và suy nghĩ. Do đó tôi đưa ra một vài kinh nghiệm của bản thân để góp phần mình vào sự nghiệp chung. Việc vận dụng các phương pháp, kỹ năng khai thác kênh hình vào giảng dạy Lịch sử, theo kinh nghiệm của bản thân tôi cùng nhiều đồng nghiệp khác đã được tham khảo ý kiến là một việc làm rất có hiệu quả nhằm gây hứng thú cho học sinh, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi việc học Lịch sử, tìm hiểu Lịch sử, nhận thức Lịch sử đang có chiều hướng giảm sút, xuống cấp. Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, lối suy nghĩ, cách sống thực dụng đang tác động mạnh mẽ đến từng học sinh cùng với sự thiếu thốn phương tiện, đồ dùng dạy học cũng như thái độ dạy học đối phó, qua loa, đại khái của không ít giáo viên đã và đang là những trở ngại không nhỏ đối với việc giảng dạy nói chung và dạy bộ môn Lịch sử nói riêng. Các kênh hình về bản đồ lịch sử, về nhân vật lịch sử với ưu thế của nó: rõ ràng, sinh động, dễ nhớ, dễ ấn tượng, dễ đi vào lòng người sẽ là một thế mạnh trong việc hỗ trợ đắc lực cho việc truyền thụ kiến thức lịch sử thông qua đó góp phần giáo dục đạo đức, lòng biết ơn đối với truyền thống tổ tiên, với các lãnh tụ, các danh nhân cũng như những anh hùng liệt sĩ đã hi sinh, đã đóng góp xương máu của mình để làm rạng rỡ thêm lịch sử nước nhà cũng như lịch sử văn minh nhân loại. 2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp. 2.1 Kỹ năng khai thác kênh hình: Để đạt hiệu quả cao khi khai thác kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử nhằm phục vụ cho việc giảng dạy, giáo viên nên yêu cầu học sinh quan sát và tìm hểu thông tin liên quan đến kênh hình của bài học mới ở nhà. Đồng thời phải có kế hoạch cụ thể công việc của thầy và trò trong quá trình làm việc trên lớp. 3 Trước hết để khai thác tốt kênh hình trong SGK phục vụ cho việc giảng dạy bộ môn lịch sử, bằng những kinh nghiệm thực tế, xin trình bày một số kĩ năng cơ bản sau: Thứ 1: Nắm được phương pháp cơ bản khai thác các loại kênh hình Về cơ bản, hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử hiện nay, gồm có hai loại chính sau: Loại 1: Lược đồ, biểu đồ. Loại 2: Hình ảnh lịch sử. Trong loại hình ảnh lịch sử lại có hai nhóm chính: Nhóm1: Hình ảnh minh họa tình hình quân sự, kinh tế, văn hoá, chính trị, khoa học kĩ thuật... Nhóm 2: Hình ảnh về nhân vật lịch sử. Do mỗi loại kênh hình thể hiện một nội dung khác nhau, nên phương pháp khai thác cũng khác nhau và phải phù hợp, cụ thể là: - Loại lược đồ, biểu đồ: Phương pháp là khai thác từng bước những vấn đề lịch sử đặt ra để đi đến hoàn thiện. - Nhóm hình ảnh minh hoạ: Phương pháp là khai những chi tiết của hình ảnh để đi đến đến hoàn thiện. - Nhóm hình ảnh nhân vật lịch sử. Phương pháp là tìm hiểu hoạt động của nhân vật lịch sử để đi đến hoàn thiện. Thứ 2: Phải nắm được kiến thức cơ bản của kênh hình. Việc nắm được kiến thức cơ bản của kênh hình đóng một vai trò rất quan trọng, giúp giáo viên chủ động, linh hoạt trong quá trình tổ chức khai thác kênh hình trên lớp. Để nắm được kiến thức cơ bản của kênh hình, bên cạnh những tài liệu như các loại sách tham khảo, sách giáo khoa, sách giáo viên, sách chuẩn kiến thức kỹ năng... thì Internet đang trở thành công cụ đắc lực và được phổ biến trong việc khai thác thông tin, tìm tài liệu hiệu quả nhất. Hầu hết cách kênh hình và những thông tin liên quan đều đã có trên một số trang Web của Internet, nên việc tìm thông tin trên Internet, có nhiều lợi ích, như: - Hình ảnh màu, sắc nét và sinh động hơn hình ảnh trong sách giáo khoa. - Thông tin phong phú và có những đánh giá về vấn đề lịch sử mang tính hiện đại, phù hợp với quan điểm hiện nay hơn. - Tiết kiệm được thời gian tìm kiếm thông tin... Thứ 3: Xác định mục đích cần hướng đến khi khai thác kênh hình. Việc xác định mục đích cần hướng đến khi khai thác kênh hình, là nhằm tránh sự chệch hướng trong quá trình khai thác và để đạt hiệu quả cao nhất sau khi khai thác. Thứ 4: Thiết kế câu hỏi hợp lý, trọng tâm. Câu hỏi hợp lý, trọng tâm, có ý nghĩa rất quan trọng, nó không những phát huy được tính tích cực, phát triển khả năng tư duy của học sinh; mà còn giúp học sinh hiểu sâu, nhớ kĩ những kiến thức được tìm hiểu... 2.2. Nguyên tắc khai thác kênh hình: Giáo viên đứng lớp cần phải có sự chuẩn bị chu đáo cẩn thận, nghiên cứu kỹ trước nội dung các kênh hình trước khi lên lớp. Chuẩn bị lời nói ngắn gọn, 4 súc tích, dễ hiểu và gây hứng thú cho học sinh. Chính yêu cầu đó sẽ giúp người giáo viên nâng cao ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm trong các giờ lên lớp. Ngoài ra các giờ sử dụng kênh hình trong dạy học giáo viên chủ yếu đóng vai trò hướng dẫn, chỉ đạo, còn học sinh phải tự quan sát nghiên cứu để rút ra kiến thức. Giáo viên phải khắc phục khó khăn sưu tầm các tài liệu có liên quan đến kênh hình, trao đổi chuyên môn tổ, cụm chuyên môn để có cách sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa một cách hiệu quả nhất. Bên cạnh đó học sinh học sinh phải tự giác tìm hiểu kênh hình dưới sự hướng dẫn gợi mở của giáo viên, tiếp nhận kiến thức một cách chủ động. Để nâng cao hiệu qủa sử dụng kênh hình cần đảm bảo các nguyên tắc sau: Một là: Sử dụng đúng mục đích. Trong quá trình dạy học giáo viên phải đề ra được đúng mục đích dạy học, tiến trình các hoạt động lên lớp. Hoạt động của giáo viên cũng như việc sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa quy định mục đích học tập của học sinh. Mục đích của mỗi bài chính là học sinh lĩnh hội được tri thức, hình thành và phát triển kỹ năng, nhân cách. Mỗi một loại kênh hình trong sách giáo khoa có một chức năng riêng nên chúng phải được nghiên cứu cụ thể để sử dụng đúng mục đích, phù hợp với yêu cầu bài học. VD: Kênh hình được trình bày để minh họa cho bài giảng thì việc sử dụng chúng cũng chỉ dừng lại ở việc minh họa cho bài giảng nhằm làm cho nội dung bài giảng sinh động, phong phú, hấp dẫn hơn. Giáo viên không sử dụng chúng trong việc củng cố hay trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Với những kênh hình là nguồn cung cấp thông tin kiến thức thì giáo viên phải gợi mở, yêu cầu học sinh thông qua làm việc với kênh hình để tìm ra kiến thức và lĩnh hội tri thức đó. Hai là: Sử dụng đúng lúc. Nghĩa là kênh hình lúc nào cũng phải được sử dụng hợp lý nhất, trong trình bày kiến thức mới hay là củng cố kiến thức đã học hoặc ra bài tập về nhà. Tóm lại cần được đưa ra khi học sinh cần được minh họa, cần tìm hiểu nhất về nội dung bài học, tránh đưa ra đồng loạt phân tán sự chú ý của học sinh. Ba là: Sử dụng đúng mức độ, cường độ. Tùy vào từng nội dung, mục đích sử dụng mà giáo viên đưa ra những yêu cầu khác nhau đối với học sinh. Trong giờ giảng bài mới nếu điều kiện thời gian không cho phép thì giáo viên chỉ tập trung giới thiệu, thuyết minh một số hình vẽ, sơ đồ, lược đồ, tranh ảnh điển hình nhất ( nếu bài nhiều tranh ảnh ). Với những hình ảnh khác giáo viên chỉ dừng lại ở việc cho học sinh quan sát sơ lược để học sinh nắm được những biểu tượng ban đầu mà thôi. Hoặc với những kênh hình để minh họa cho bài giảng giáo viên không nên cho học sinh đứng lên thuyết trình về kênh hình đó vì điều đó vượt quá sức của học sinh, giáo viên có thể giao cho học sinh tìm hiểu thêm ở nhà. Hơn nữa cần phải bố trí thời gian ở những kênh hình một cách hợp lý mà không bỏ qua phần cơ bản là kênh chữ. Bốn là: Kết hợp sử dụng kênh hình sách giáo khoa với các đồ dùng được trang bị. Như bản đồ, sơ đồ, tranh ảnh phóng to, các tài liệu thành văn có liên quan. Với những kênh hình khó quan sát, mờ hoặc chưa cụ thể, giáo viên có thể phóng to, sưu tầm ảnh màu trên Internet hoặc cụ thể hóa để các em dễ nhận biết và tiếp thu hơn. 5 Năm là: Nội dung thuyết minh kênh hình phải sinh động, hấp dẫn, kết hợp với những lời nói truyền cảm thì mới có sức thuyết phục cao đối với học sinh. Sáu là: Phương pháp thường hay sử dụng để khai thác kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử là. Hướng dẫn học sinh quan sát ( từ tổng thể đến chi tiết ), kết hợp miêu tả, phân tích, đàm thoại thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở của giáo viên để học sinh tự rút ra được ý nghĩa của kênh hình đó. Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm, cá nhân hoặc toàn lớp Hiệu quả sử dụng kênh hình còn phụ thuộc vào sự ham muốn của học sinh, giáo viên phải là người đưa ra tình huống có vấn đề để kích thích sự hiểu biết của học sinh, khơi dậy niềm đam mê của học sinh đối với môn học. 2.3. Ứng dụng cụ thể: Với những kĩ năng cơ bản và các nguyên tắc nêu trên, dưới đây là một số ứng dụng cụ thể: Hình 1: Khu di tích thánh địa Mĩ Sơn (Quảng Nam) (Lớp 6, Bài 24: Nước Cham-pa từ thế kỷ II đến thế kỷ X) Thánh địa Mĩ Sơn * Mục đích cần hướng đến Một di tích lịch sử và văn hoá tiêu biểu của Cham-pa, một di sản văn hoá thế giới. * Kiến thức cơ bản để khai thác. Thánh địa Mĩ Sơn thuộc huyện Duy Xuyên, Quảng Nam, cách Đà Nẵng 70 km về phía tây - nam. Năm 1898, một người Pháp tên M.C Pa-ris đã phát hiện khu đền tháp Mĩ Sơn nằm kín trong một thung lũng hẹp, giữa những khu rừng rậm. Mĩ Sơn là một quần thể với hơn 70 đền tháp, được xây dựng liên tục trong suốt 1000 năm. Khởi công từ thế kỉ IV bởi vị vua Bha-dra-var-man và kết thúc 6 vào đầu thế kỷ XIV dưới triều vua Sim-ha-var-man III ( vua Chế Mân), để thờ thần và các vị vua quá cố. Đền tháp được xây bằng gạch, còn tượng được tạc bằng đá. Hầu hết các công trình kiến trúc và điêu khắc ở đây đều mang ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ giáo. Do thời gian, thời tiết và sự tàn phá của chiến tranh, hiện Mĩ Sơn chỉ còn lại khoảng gần 20 đền tháp. Dù vậy với những gì còn lại tại Mĩ Sơn cũng như những hiện vật được lưu giữ tại bảo tàng Cham-pa tại Đà Nẵng, bảo tàng Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh...cũng đủ làm cho chúng ta vô cùng thán phục về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và trang trí của người Cham-pa cổ xưa. Thánh địa Mĩ Sơn xứng đáng là khu di tích tôn giáo kỳ vĩ nhất, đặt trưng nhất về di sản văn hoá vật thể của người Chăm-pa. Với tầm vóc đó, tháng 12- 1999 UNESCO đã công nhận Thánh địa Mĩ Sơn là di sản văn hoá thế giới. * Câu hỏi sử dụng Câu 1: Sau khi quan sát các chi tiết thánh địa Mĩ Sơn; Em có nhận xét gì về hình dáng kiến trúc, chất liệu xây dựng, số lượng công trình...? Câu 2: Ngoài ra, em còn biết gì thêm về thánh địa Mĩ Sơn? Câu 3: Qua tìm hiểu, thánh địa Mĩ Sơn nói lên điều gì? Hình 2: Tượng đội quân bằng đất nung trong khu mộ Tần Thuỷ Hoàng (Lớp 7, Bài 4: Trung Quốc thời phong kiến) Đội quân bằng đất nung trong khu mộ Tần Thuỷ Hoàng * Mục đích cần hướng đến Tìm hiểu tính chính diện và phản diện qua kênh hình về thời Tần Thuỷ Hoàng. * Kiến thức cơ bản để khai thác. Tần Thuỷ Hoàng hiệu Doanh Chính, là quốc vương nước Tần thời Chiến quốc. Năm 221 TCN, ông đã thống nhất 7 nước lập ra vương triều phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở Trung Quốc. 7 Năm 246 TCN, Tần Thủy Hoàng đã cho xây dựng lăng mộ cho mình, ở phía Đông Bắc núi Ly Sơn thuộc Tây An. Công trình kéo dài suốt 36 năm với sự tham gia thi công của hàng chục vạn người (theo sử sách ghi chép lại, 70 vạn người để xây dựng lăng mộ và cung A Phòng cho Tần Thủy Hoàng). Điều này cho thấy rằng qui mô là rất lớn. Ngoài ngôi mộ khổng lồ trên mặt đất, còn có một cung điện dưới lòng đất. Sau khi hoàn thành công việc những người tham gia thi công đều đã bị giết để bảo toàn bí mật. Khu lăng mộ này được mệnh danh là kỳ quan thứ 8 của thế giới và là một trong những phát hiện quan trọng nhất của ngành khảo cổ đương đại. Năm 1974 các nhà khảo cổ học của Trung Quốc bắt đầu khai quật khu lăng mộ. Tuy nhiên đến nay chỉ mới khai quật được một phần, chủ yếu là các hầm mộ binh mã, (cách hầm mộ Tần Thủy Hoàng 1.500m về phia Đông), còn hầm mộ chính của Tần Thủy Hoàng vẫn chưa khai quật. Trong việc khai quật 4 hầm mộ binh mã (trong đó có 1 hầm mộ chưa làm xong), với 3 hầm mộ người ta đã phát hiện hơn 8.000 tượng lính, 130 xe ngựa, 500 ngựa, rất nhiều vàng bạc, châu báu và nhiều vô kể binh khí bằng đồng xanh như kiếm, giáo, mác, mũi tên...Nét nổi bật là những tượng lính đều làm bằng thủ công với phương pháp nặn tượng nên nét mặt rất phong phú, sinh động và giống người thật. Những gì đã được khai quật trong khu lăng mộ Tần Thủy Hoàng phần nào cho ta thấy được sức mạnh quân sự của nhà Tần thời Chiến quốc, đồng thời qua đó nó còn phản ảnh sự tàn bạo của Tần Thủy Hoàng. Mặc khác nó còn thể hiện sự sáng tạo cao về nghệ thuật của nghệ nhân Trung Quốc và trình độ kĩ thuật làm gốm, luyện kim đứng đầu thế giới của Trung Quốc thời bấy giờ. * Câu hỏi sử dụng Câu 1: Sau khi quan sát tượng đội quân bằng đất nung trong khu mộ Tần Thuỷ Hoàng; Em có nhận xét gì về số lượng, hàng lối, hình dáng, nét mặt của các tượng?... Câu 2: Số lượng, hàng lối, hình dáng, nét mặt của các tượng nói lên điều gì? Hình 3: Tranh biếm họa ở châu Âu năm 1939 (Lớp 8, Bài 18: Chiến tranh thế giới thứ hai) 8 H×nh 75. Tranh biÕm häa ë ch©u ¢u 1939. * Mục đích cần hướng đến Hít-le được ví như người khổng lồ, xung quanh là các chính khách châu Âu đã nhượng bộ Hít-le. * Kiến thức cơ bản để khai thác: Tiểu sử về Hitle Adolf Hitle sinh ngày 20-4-1889, tự sát ngày 30-4-1945. Là chủ tịch đảng Đức Quốc xã từ năm 1921, làm thủ tướng Đức từ năm 1933, là "Lãnh tụ và Thủ tướng đế quốc" kiêm nguyên thủ quốc gia nắm quyền Đế quốc Đức kể từ năm 1934. Ông kiến lập chế độ độc quyền quốc gia xã hội của Đệ tam Đế quốc, cấm chỉ tất cả các đảng đối lập và bức hại các đối thủ chính trị. Ông đã khởi phát thế chiến thứ hai, thúc đẩy một cách có hệ thống quá trình tước đoạt quyền lợi và sát hại khoảng sáu triệu người Do Thái châu Âu cùng một số nhóm chủng tộc, tôn giáo, chính trị khác, được gọi là cuộc Đại đồ sát dân Do Thái. Điều đặc biệt là cả Hít-le và vua hài Sác-lô đều sinh cùng thời điểm là tháng 4 năm 1889 ( vua hài Sác-lô sinh ngày 15/4/1889) nhưng một người thì mang lại tiếng cười cho cả thế giới, còn người kia thì làm cho cả thế giới phải khóc ( vì Hít-le đã châm ngòi cho cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ - một cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử nhân loại, làm hơn 60 triệu người chết. ) Hầu như tất cả các nhà viết tiểu sử Hitler đều nhấn mạnh sự khác nhau rất rõ giữa hai phần đời của ông. Đoạn đời trước tuổi ba mươi của ông, nếu so với mức bình dân thời đó chỉ được xem là khoảng đời không thành đạt, bởi Hit-le không được đào tạo nghề nghiệp, không có mối quan hệ nào đáng kể, sau thất bại của nước Đức trong Thế chiến thứ nhất ông là một người lính không có triển vọng và hơn hết là ông không có những cá tính đặc thù để có thể giải thích một cách thuyết phục được sự thăng tiến sau đó của mình. 9 Mặc dù vậy, nhân vật này chỉ trong vòng vài năm đã bước lên ngôi Thủ tướng Đức và cuối cùng, đã trở thành người cầm quyền độc tài, cai trị phần lớn châu Âu. Hit-le là một trong số ít các nhân vật trong lịch sử nhân loại đã phát huy một năng lực hủy hoại hiếm thấy. Câu hỏi sử dụng Câu 1: Em hãy quan sát thật kĩ bức tranh biếm họa về Hit-le và cho biết nội dung bức tranh muốn nói lên điều gì? Câu 2: Em biết gì về trùm phát xít Hít-le? Câu 3: Qua những hiểu biết của mình; Em đánh giá như thế nào về nhân vật này? Hình 4: Ảnh chân dung Nel-son Man-de-la ( Lớp 9, Bài 6: Các nước châu Phi ) Nelson Mandela * Mục đích cần hướng đến Tìm hiểu một nhân vật lịch sử đương đại tiêu biểu của châu Phi và thế giới về phong trào đấu tranh cho tự do-dân chủ, chống đói nghèo và bệnh tật... * Kiến thức cơ bản để khai thác. Nel-son Man-de-la sinh ngày 18-7-1918 tại Nam Phi. Ngay từ thời trẻ, ông đã đấu tranh chống chế độ A-pac-thai. Năm 1948, bắt đầu tham gia chính trường, gia nhập đảng Đại hội dân tộc Phi (ANC). Ông chịu ảnh hưởng tư tưởng của Ma-hat-ma Gan-dhi ( nhà cách mạng Ấn Độ ) và chủ trương đòi quyền lợi cho người da đen thông qua các biện pháp đấu tranh bằng hoà bình. Tuy nhiên càng ngày Man-de-la càng nhận ra rằng đấu tranh hoà bình sẽ chẳng đi đến đâu. Năm 1961, ông lãnh đạo phong trào vũ trang của ANC. Tháng 8-1963 ông bị bắt và bị kết án tù chung thân. Mặc dù ở trong tù, nhưng ông vẫn tiếp tục đấu tranh. Bên cạnh đó phong trào đấu tranh đòi tự do cho ông diễn ra ngày một mạnh mẽ cả trong nước và 10 quốc tế. Trước sức ép của dư luận, nhà cầm quyền Nam Phi phải kí lệnh trả tự do cho Man-de-la vào tháng 2-1990, chấm dứt 27 năm ông bị giam cầm. Sau khi ra tù Ông trở lại nắm quyền lãnh đạo ANC và tiếp tục đấu tranh bằng phương pháp hoà bình chống chủ nghĩa A-pac-thai. Trước áp lực đấu tranh của người da màu, bản Hiếp pháp tháng 11năm 1993 đã chính thức xoá bỏ chế độ phân biệt chủng tộc. Tinh thần đấu tranh của Ông được cả thế giới ngưỡng mộ và Ông đã nhận được giải thưởng No-bel vì hoà bình ( năm 1993 ). Trong cuộc bầu cử dân chủ đa chủng tộc đầu tiên ở Nam Phi (4-1994), Mandela trở thành Tổng thống. Năm 1999, Ông nghỉ hưu, nhưng lại đấu tranh cho cuộc chiến khác; chiến đấu vì trẻ em, vì người nghèo và vì bệnh tật, đặt biệt là tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS. Trên cơ sở tinh thần đấu tranh không mệt mỏi đó. Ông xứng đáng là một biểu tượng lịch sử đương đại về tự do-dân chủ, chống đói nghèo và bệnh tật, không những của châu Phi mà còn của thế giới. * Câu hỏi sử dụng Câu 1: Em biết gì về Nel-son Man-de-la ? Câu 2: Qua những hiểu biết của mình; Em đánh giá như thế nào về nhân vật này? Trên đây là một số ví dụ cụ thể về việc khai thác kênh hình như thế nào để đạt hiệu quả tốt nhất, do phụ trách giảng dạy môn Lịch sử ở khối lớp 8 nên phần lớn những ví dụ mà tôi đưa ra chủ yếu nằm trong chương trình lớp 8. Trong khuôn khổ giới hạn của một đề tài, tôi chỉ đưa ra một vài ví dụ minh họa cho phần phân tích ở trên. Nhưng nếu giáo viên nắm chắc các kỹ năng và các nguyên tắc như đã nêu trong đề tài và chịu khó tìm hiểu các tư
File đính kèm:
- chuyen_de_mot_so_kinh_nghiem_khi_su_dung_kenh_hinh_trong_day.pdf