Đề thi học sinh giỏi môn Ngữ Văn Lớp 9 - Đề 5 - Phòng GD&ĐT Hải Dương (Có đáp án)

b) Yêu cầu về kiến thức:

 A- Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận.

 B- Thân bài:

ý 1: Giải thích, cắt nghĩa

- “Mặt trời”, “mặt trăng” là những vì tinh tú của đất trời có chức năng tỏa sáng.

- “Mọc”, “lặn”, “ tròn”, “ khuyết” là quy luật của chúng.

=> Tác giả sử dụng cách nói tương phản- sự tương phản giữa hai nguồn ánh sáng: một đằng chỉ chiếu sáng từng lúc, một đằng “còn mãi” để làm bật lên công ơn to lớn của người thầy.

ý 2: Bàn luận

- Thầy cô là những người cha, người mẹ thứ hai trong cuộc đời của mỗi con người( cha mẹ cũng là thầy- người thầy đầu tiên và cuối cùng trong cuộc đời, nhưng cha mẹ không thể thay thế được người thầy). Hành trình cuộc đời của mỗi người đều có những người thầy đi qua, và mỗi người thầy sẽ lưu lại đó một dấu ấn, chiếu rọi vào đó những nguồn ánh sáng riêng: ánh sáng của tri thức văn hóa; ánh sáng của ước mơ, hoài bão, lí tưởng; ánh sáng của tình yêu thương, của ý chí, nghị lực, của niềm tin,.Thầy không chỉ dạy chữ mà còn dạy cho học sinh cách làm người, dìu dắt, nâng đỡ học trò trưởng thành không chỉ về nhận thức mà còn về tâm hồn, tình cảm, nhân cách,.

=> Chính vì thế mà nguồn sáng mà người thầy chiếu rọi sẽ “còn mãi” trong cuộc đời mỗi con người.

ý 3: Liên hệ thực tiễn

- Học sinh có thể nói về truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam( Nhất tự vi sư, bán tự vi sư; Muốn sang thì bắc cầu kiều.; xã hội dành riêng một ngày trong năm- 20/11 để tôn vinh người thầy,.)

- Phê phán những biểu hiện khiến truyền thống ấy đang dần có nguy cơ mai một và biến đổi về tính chất.(Học sinh cần phân tích nguyên nhân và bày tỏ suy nghĩ của mình trước thực trạng ấy)

C- Kết bài: Khẳng định và nêu ý nghĩa của vấn đề.

 

doc5 trang | Chia sẻ: Đạt Toàn | Ngày: 12/05/2023 | Lượt xem: 160 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung Đề thi học sinh giỏi môn Ngữ Văn Lớp 9 - Đề 5 - Phòng GD&ĐT Hải Dương (Có đáp án), để tải tài liệu về máy bạn hãy click vào nút TẢI VỀ
PHÒNG GD&ĐT TP HẢI DƯƠNG
ĐỀ THI HSG LỚP 9
V5 
MÔN : NGỮ VĂN
Thời gian làm bài: 150 phút
(Đề này gồm 3 câu 1 trang)
Câu 1 ( 2 điểm)
Có gì đặc sắc trong cách miêu tả tiếng chim qua những câu thơ sau:
Người lắng nghe
Súng lắng nghe
 Tiếng chim nhuộm nắng
 Vàng hoe núi đồi....
 (Đặng Vương Hưng)
 Tiếng chim tha nắng rải đồng vàng thơm
 (Định Hải)
 Bay cao bay vút
 Chim biến mất rồi
 Chỉ còn tiếng hót 
 Làm xanh da trời
 (Huy Cận)
Câu 2 ( 3 điểm)
	Mặt trời mọc rồi lại lặn, mặt trăng tròn rồi lại khuyết nhưng ánh sáng mà người thấy rọi vào ta sẽ còn mãi trong cuộc đời.
 (Quách Mạt Nhược)
Suy nghĩ của em về câu nói trên?
Câu 3 ( 5 điểm)
	 Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân gợi cho em suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp.
Dựa vào đoạn trích trong Ngữ văn 9, tập một, trình bày ý kiến của em.
-----------------------Hết---------------------
PHÒNG GD&ĐT TP HẢI DƯƠNG
HƯỚNG DẪN CHẤM ĐỀ THI HSG LỚP 9
Mã: V- Vũ Thị Hà -CT-TPHD 
MÔN : NGỮ VĂN
(Hướng dẫn chấm gồm 4 trang)
Câu(ý)
Đáp án
Điểm
 1 
(2điểm)
- Đặc sắc trong cách tả tiếng chim qua những câu thơ:
+ Đều miêu tả âm thanh tiếng chim điểm tô thêm những sắc màu( vàng hoe, vàng thơm, làm xanh) cho đất trời nhờ biện pháp nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác.
+ Sau “tiếng chim”, “tiếng hót” là những động từ “nhuộm”, “tha”, “làm” cho thấy biến thái tinh tế, thú vị của âm thanh diệu kì ấy.
0,5 điểm
- Phát hiện vẻ đẹp riêng của tiếng chim trong từng câu thơ:
+ Đặng Vương Hưng miêu tả âm thanh lắng đọng có sức lan tỏa trong một không gian rộng lớn khiến các sự vật “núi đồi” như nhuận sắc hơn “vàng hoe”.
+ Định Hải không chỉ không gian rộng lớn nhuận sắc với “đồng vàng” mà còn có hương “thơm”quyến rũ.
+ Huy Cận tưởng như giống cái cách mà Đặng Vương Hưng miêu tả nhưng nếu âm thanh tiếng chim trong thơ Đặng Vương Hưng có sức lắng đọng như một nốt trầm dư ba thì Huy Cận lại là thanh âm trong trẻo có độ vút cao như một nốt thăng đầy cá tính.
1,25 điểm
- Quan sát tinh tế và phẩm chất sáng tạo của người nghệ sĩ.	
- Khơi gợi tình yêu thiên nhiên.
0,25 điểm
 2 (3điểm)
a) Yêu cầu về kĩ năng:
- Kiểu bài: Nghị luận xã hội.
- Đảm bảo đúng bố cục 3 phần và hệ thống ý sáng rõ.
- Văn viết trôi chảy, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục, sinh động.
- Không mắc lỗi diễn đạt, không sai lỗi chính tả, dùng từ, trình bày bài rõ ràng.
b) Yêu cầu về kiến thức:
 A- Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận.
 B- Thân bài:
ý 1: Giải thích, cắt nghĩa
- “Mặt trời”, “mặt trăng” là những vì tinh tú của đất trời có chức năng tỏa sáng.
- “Mọc”, “lặn”, “ tròn”, “ khuyết” là quy luật của chúng.
=> Tác giả sử dụng cách nói tương phản- sự tương phản giữa hai nguồn ánh sáng: một đằng chỉ chiếu sáng từng lúc, một đằng “còn mãi” để làm bật lên công ơn to lớn của người thầy.
ý 2: Bàn luận
- Thầy cô là những người cha, người mẹ thứ hai trong cuộc đời của mỗi con người( cha mẹ cũng là thầy- người thầy đầu tiên và cuối cùng trong cuộc đời, nhưng cha mẹ không thể thay thế được người thầy). Hành trình cuộc đời của mỗi người đều có những người thầy đi qua, và mỗi người thầy sẽ lưu lại đó một dấu ấn, chiếu rọi vào đó những nguồn ánh sáng riêng: ánh sáng của tri thức văn hóa; ánh sáng của ước mơ, hoài bão, lí tưởng; ánh sáng của tình yêu thương, của ý chí, nghị lực, của niềm tin,..Thầy không chỉ dạy chữ mà còn dạy cho học sinh cách làm người, dìu dắt, nâng đỡ học trò trưởng thành không chỉ về nhận thức mà còn về tâm hồn, tình cảm, nhân cách,...
=> Chính vì thế mà nguồn sáng mà người thầy chiếu rọi sẽ “còn mãi” trong cuộc đời mỗi con người.
ý 3: Liên hệ thực tiễn
- Học sinh có thể nói về truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam( Nhất tự vi sư, bán tự vi sư; Muốn sang thì bắc cầu kiều...; xã hội dành riêng một ngày trong năm- 20/11 để tôn vinh người thầy,...)
- Phê phán những biểu hiện khiến truyền thống ấy đang dần có nguy cơ mai một và biến đổi về tính chất...(Học sinh cần phân tích nguyên nhân và bày tỏ suy nghĩ của mình trước thực trạng ấy) 
C- Kết bài: Khẳng định và nêu ý nghĩa của vấn đề.
0,25 điểm
0,5 điểm
1,0 điểm
1,0 điểm
0,25 điểm
3
(5điểm)
a) Yêu cầu về kĩ năng:
- Kiểu bài: Nghị luận văn học.
- Đảm bảo đúng bố cục 3 phần và hệ thống ý sáng rõ.
- Văn viết trôi chảy, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục.
- Không mắc lỗi diễn đạt, không sai lỗi chính tả, dùng từ, trình bày bài rõ ràng.
b) Yêu cầu về kiến thức:
 A- Mở bài:
 - Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 – 1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc. Ông gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân. Đi kháng chiến, ông tha thiết muốn thể hiện tinh thần kháng chiến của người nông dân
 - Truyện ngắn Làng được viết và in năm 1948, trên số đầu tiên của tạp chí Văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc. Truyện nhanh chóng được khẳng định vì nó thể hiện thành công một tình cảm lớn lao của dân tộc, tình yêu nước, thông qua một con người cụ thể, người nông dân với bản chất truyền thống cùng những chuyển biến mới trong tình cảm của họ vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
 B- Thân bài
 1. Truyện ngắn Làng biểu hiện một tình cảm cao đẹp của toàn dân tộc, tình cảm quê hương đất nước. Với người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến thì tình yêu làng xóm quê hương đã hoà nhập trong tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tình cảm đó vừa có tính truyền thống vừa có chuyển biến mới.
 2. Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện sinh động và độc đáo ở một con người, nhân vật ông Hai. ở ông Hai tình cảm chung đó mang rõ màu sắc riêng, in rõ cá tính chỉ riêng ông mới có.
 a. Tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thống trong ông Hai.
 - Ông hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê.
 - Cái làng đó với người nông dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần.
 b. Sau cách mạng, đi theo kháng chiến, ông đã có những chuyển biến mới trong tình cảm.
 - Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, về việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Phải xa làng, ông nhớ quá cái khong khí “đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá”; rồi ông lo “cái chòi gác, những đường hầm bí mật,” đã xong chưa?
 - Tâm lí ham thích theo dõi tin tức kháng chiến, thích bình luận, náo nức trước tin thắng lợi ở mọi nơi “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại, làm gì mà thằng Tây không bước sớm”.
 c. Tình yêu làng gắn bó sâu sắc với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ sâu sắc trong tâm lí ông khi nghe tin làng theo giặc.
 - Khi mới nghe tin xấu đó, ông sững sờ, chưa tin. Nhưng khi người ta kể rành rọt, không tin không được, ông xấu hổ lảng ra về. Nghe họ chì chiết ông đau đớn cúi gầm mặt xuống mà đi.
 - Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người thì lại không tin họ “đổ đốn” ra thế. Nhưng cái tâm lí “không có lửa làm sao có khói”, lại bắt ông phải tin là họ đã phản nước hại dân.
 - Ba bốn ngày sau, ông không dám ra ngoài. Cái tin nhục nhã ấy choán hết tâm trí ông thành nỗi ám ảnh khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt giật mình. Không khí nặng nề bao trùm cả nhà.
 - Tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung đột nội tâm gay gắt: Đã có lúc ông muốn quay về làng vì ở đây tủi hổ quá, vì bị đẩy vào bế tắc khi có tin đồn không đâu chứa chấp người làng chợ Dầu. Nhưng tình yêu nước, lòng trung thành với kháng chiến đã mạnh hơn tình yêu làng nên ông lại dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Nói cứng như vậy nhưng thực lòng đau như cắt.
 - Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông trút nỗi lòng vào lời tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với cụ Hồ, với anh em đồng chí và tự nhủ mình trong những lúc thử thách căng thẳng này:
 + Đứa con ông bé tí mà cũng biết giơ tay thề: “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!” nữa là ông, bố của nó.
 + Ông mong “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”.
 + Qua đó, ta thấy rõ:
Tình yêu sâu nặng đối với làng chợ Dầu truyền thống (chứ không phải cái làng đổ đốn theo giặc).
Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng chiến mà biểu tượng của kháng chiến là cụ Hồ được biểu lộ rất mộc mạc, chân thành. Tình cảm đó sâu nặng, bền vững và vô cùng thiêng liêng : có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.
 d. Khi cái tin kia được cải chính, gánh nặng tâm lí tủi nhục được trút bỏ, ông Hai tột cùng vui sướng và càng tự hào về làng chợ Dầu.
 - Cái cách ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà của ông là biểu hiện cụ thể ý chí “Thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước” của người nông dân lao động bình thường.
 - Việc ông kể rành rọt về trận chống càn ở làng chợ Dầu thể hiện rõ tinh thần kháng chiến và niềm tự hào về làng kháng chiến của ông.
 3. Nhân vật ông Hai để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ thuật miêu tả tâm lí tính cách và ngôn ngữ nhân vật của người nông dân dưới ngòi bút của Kim Lân.
 - Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống thử thách bên trong để nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm trạng.
 - Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại.
 - Ngôn ngữ của Ông Hai vừa có nét chung của người nông dân lại vừa mang đậm cá tính nhân vật nên rất sinh động.
 C- Kết bài:
 - Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấm thía tình yêu làng, yêu nước rất mộc mạc, chân thành mà vô cùng sâu nặng, cao quý trong những người nông dân lao động bình thường.
 - Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yếu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống Pháp đã chú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý.
0,25 điểm
0,5 điểm
3 điểm
1 điểm
0,25 điểm
 Tổng
10 điểm
* Chú ý: Học sinh có thể diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau, nếu đúng vẫn cho điểm tối đa, khuyến khích những bài viết có tính sáng tạo.
--------------------------------------------Hết ---------------------------------------

File đính kèm:

  • docde_thi_hoc_sinh_gioi_mon_ngu_van_lop_9_de_5_phong_gddt_hai_d.doc
Bài giảng liên quan