Giải mã các ca khúc của The Beatles
Đối với người nghe Beatles , ngoài giai điệu tuyệt vời, ca từ của những bài
hát của Beatles đóng một vai trò rất quan trọng. Đằng sau mỗi bài hát của
Beatles đều là một câu chuyện lí thú về nguồn gốc, kĩ thuật thu âm và những thứ
liên quan khác. Bài viết này sẽ cung cấp cho các bạn những điều cần thiết về
các bài hát của Beatles để có thể thưởng thức chúng một cách trọn vẹn hơn
Trong khoảng thời gian tồn tại khá ngắn ngủi. Beatles đã cho ra đời 13 album
studio. Những album đầu chủ hầu hết đều theo công thức 7/3 (7 bài do nhóm
sáng tác và 3 bài cover lại). Trong khuôn khổ bài viết này chỉ giới thiệu về những
sáng tác của Beatles, còn những ca khúc cover lại sẽ không được đề cập đến.
Nguồn tài liệu chính của chủ đề này tổng hợp từ nhiều ấn phẩm khác nhau của
Beatles, chủ yếu là hai cuốn A Hard Day's Write-The Stories Behind Every
Beatles Songs và Beatlesongs.
rian có thể không quan tâm đến sự phát triển về mặt âm nhạc của nhóm vì điều đó không có lợi gì cho ông một khi Beatles thay đổi hình tượng và ngừng lưu diễn. Ngược lại, nhóm Beatles cũng không cần quan tâm đến cái gọi là lợi nhuận thị trường của thời kì đầu nấm với những chuyến lưu diễn và họp báo bất tận. Điều quan trọng nhất đối với Beatles trong thời điểm đó là chứng tỏ được năng lực sáng tạo thật sự của mình. Từ bỏ vai trò những ngôi sao nhạc pop, tứ quái bắt đầu gánh vác sứ mạng nặng nề hơn, sứ mạng của những nhà tiên tri, những người lãnh đạo về văn hoá (hay đúng hơn là của phong trào phản văn hoá) của giới trẻ trong thập niên 60. Với tầm vóc vĩ đại của album, tất nhiên bìa đĩa cũng là một chuyện đáng phải bàn đến. Ý tưởng về bìa đĩa của SP là do Paul đề xướng với ý nghĩa là “mọi người” tập hợp xung quanh tâm điểm là tứ quái trong hình tượng mới Sgt. Pepper‟s Lonely Hearts Club Band. Và dĩ nhiên, “mọi người ở đây” không phải là bất cứ ai mà là những người nổi tiếng, trong đó có cả nhóm Beatles cũ. Bìa đĩa thể hiện tham vọng của nhóm Beatles vượt lên tất cả những đỉnh cao về mặt văn hoá, chính trị, nghệ thuật của thời đại. Mỗi thành viên của Beatles được hỏi ý kiến về việc chọn lựa những gương mặt muốn đưa lên bìa đĩa. George muốn sử dụng những hình ảnh các thầy tu Ấn Độ, Ringo thì không hứng thú lắm với chuyện này nên để việc chọn lựa cho John và Paul đảm nhiệm. Trong số những gương mặt mà John chọn có chúa Jesus, thánh Gandhi của Ấn độ và nhà độc tài Hitler. Với scandal Beatles nổi tiếng hơn chúa Jesus năm trước, hang EMI không dại gì mà đưa hình ảnh chúa Jesus lên bìa đĩa một lần nữa. Hình của Hitler cũng bị loại do không muốn chọc giận người Do Thái mà gần nhất là ông Brian Epstein. Cuối cùng cả hình của Gandhi cũng bị loại vào giờ chót thay vào đó là hình của nữ diễn viên Diana Dors vì hang sợ làm phật long cộng đồng người Ấn. Người khổ nhất trong vấn đề này không ai khác hơn là ông Epstein. Là đại diện của nhóm về mặt pháp lí, ông Epstein phải liên hệ với hầu hết những người có mặt trên bìa đĩa để xin phép họ cho sử dụng hình ảnh của mình trong vòng thời gian một tuần. Nhiều người tỏ ra dễ chịu nhưng cũng có nhiều ngôi sao không cảm thấy thoải mái trong việc sử Giải mã các ca khúc của The Beatles 50 dụng hình ảnh của mình trên đĩa của Beatles. Shirley Temple đòi phải cho nghe album trước khi cho phép sử dụng hình của mình còn Marlon Brando thì lúc đầu cực lực phản đối. Cho đến ngày chụp bìa đĩa vẫn có hơn một nửa số nhân vật chưa được xin phép. Do quá căng thẳng vì sợ bị thưa kiện, trong chuyến bay từ New York về London, ông Epstein đã đánh điện về cho trợ lí của mình rằng nếu ông có mệnh hệ nào do tai nạn máy bay thì album phải được phát hành với bìa giấy màu nâu đơn giản để tránh phiền phức về mặt pháp luật. Pete Blake, người chịu trách nhiệm thiết kế bìa đĩa phải mất hai tuần để sắp xếp các nhân vật cho hợp lí. Nhóm Beatles xuất hiện với bộ quân phục kiểu Victorian sặc sỡ và thay vì cầm những cây guitar quen thuộc, nhóm lại ôm những cây kèn như một ban quân nhạc. Mặt trống Ludwig với logo Beatles nổi tiếng được thay thế bằng mặt trống kẻ tên Sgt. Pepper‟s Lonely Hearts Club Band. Các nhân vật đứng cùng hang với Beatles là tượng sáp được mượn từ bảo tang Madam Tussaud, còn lại tất cả đều được làm bằng bìa cứng. Không chỉ dừng ở đó, bên trong đĩa là cuốn booklet với tên của tất cả các nhân vật ngoài bìa đĩa được đánh số thứ tự cẩn thận theo trình tự sắp xếp, một postcard, hai cầu vai và huân chương cùng với ria mép của Sgt. Pepper và một bức hình nổi của nhóm Beatles có thể cắt ra, (những thứ này không có trong booklet của đĩa CD). Và quan trọng hơn hết là lần đầu tiên trong lịch sử nhạc pop, tất cả lời của các ca khúc được in trong booklet kèm theo album. Như vậy với khẩu hiệu “ a splendid time is guaranteed for all,” và một album được đầu tư cẩn thận đến từng chi tiết nhỏ nhất, SP ngay từ khi chưa phát hành đã đảm bảo một thành công rực rỡ. Thật vậy, khi được phát hành ngày 1/6/67 ở Anh, album đã leo thẳng lên hạng nhất bảng xếp hạng và bán được 250.000 bản ngay trong tuần đầu tiên. Ở Mỹ, thắng lợi của album còn kinh khủng hơn. Ngay từ lúc trước phát hành, album đã được đặt hang trước 1 triệu bảng và trong vòng ba tháng đầu tiên, doanh số bán ra đã vượt con số 2,5 triệu bảng. Album đã đứng nhất Billboard suốt 15 tuần liên tiếp. Tuy nhiên, tình cảm của từng con bọ đối với album này hoàn toàn trái ngược nhau. Bắt đầu từ album này, Paul bứt phá lên giành vị trí đầu tàu, ý tưởng của album cũng là của Paul, phần lớn các sáng tác trong album cũng là của Paul nên việc Paul hoàn toàn thoả mãn với đứa con tinh thần của mình cũng là điều dễ hiễu. John, mặc dù không có nhiều đất diễn như Paul vẫn coi thời gian nhóm làm album này là thời gian hạnh phúc nhất trong đời mình. Trong khi đó George và Ringo cảm thấy mình bị phân biệt đối xử nhất là Ringo. Anh có cảm giác mình chỉ là một kẻ đánh thuê vì phần lớn các ca khúc được thu âm với dàn nhạc giao hưởng hoặc dàn kèn đồng. Cho đến nay, SP vẫn là album ít được yêu thích nhất của Ringo thời kì Beatles. Sgt. Pepper‟s Lonely Hearts Club Band (and reprise) (McCartney 10) McCartney: bass, hát chính Lennon: lead guitar, hát bè Harrison: lead guitar, hát bè Starr:drums George Martin: organ Session musicians: kèn đồng Phần reprise: McCartney: bass, hát chính Lennon: lead guitar, maracas, hát chính Harrison: lead guitar,hát chính Starr: drums Paul có ý tưởng về một ban nhạc Beatles trá hình dưới một cái tên và hình ảnh khác khi bay từ Nairobi về London. Là một Beatles, các thành viên của nhóm mất đi cái quyền tự do cá nhân khi đi lại. Mỗi lần đi du lịch, các thành viên của nhóm thường phải mang tóc và râu giả để Giải mã các ca khúc của The Beatles 51 mọi người không để ý đến sự hiện diện của mình. Theo cách nghĩ của Paul, bằng cách cải trang thành một ban nhạc khác, nhóm Beatles có thể tự giải phóng mình ra khỏi sự rang buộc về mặt sáng tạo. Cái tên Sgt. Pepper‟s Lonely Hearts Club Band là do tay roadie Mal Evans nghĩ ra. Có hai giả thuyết cho cái tên Sgt. Pepper, giả thuyết thứ nhất là ông trung sĩ Pepper này thực ra là do từ Salt and Pepper đọc trại ra. Giả thuyết thứ hai là Mal Evans nghĩ đến loại nước giải khát có gas mang tên Dr. Pepper khá phổ biến ở Mỹ. Bài hát được thu âm với tiếng reo hò của khán giả như là một buổi diễn thật sự và phần reprise ở cuối album. Có lẽ đây là cách bù đắp của Beatles cho các fan khi nhóm quyết đinh ngừng lưu diễn. Ca khúc thể hiện sự kết hợp giữa nhạc rock vùng West Coast California với guitar điện và trống và phần nhạc truyền thống của Anh được thể hiện qua phần giang tấu bằng kèn đồng. Như vậy, Sgt. Pepper‟s Lonely Hearts Club Band là một ban nhạc vừa cổ điển vừa hiện đại, kết hợp giữa những giá trị hiện thời với những giá trị truyền thống. With a Little Help From My Friends (McCartney 75/ Lennon 25) McCartney: bass, piano, hát bè Lennon: hát bè Harrison: tambourine Starr: drums, hát chính Nhà báo Hunter Davies là người may mắn được chứng kiến quá trình Paul và John sáng tác ca khúc này cho “Billy Shears” mà ngoài đời chính là Ringo Starr. Vì là ca khúc viết cho Ringo nên phần giai điệu khá đơn giản. Tuy nhiên đối với phần lời, cả Paul và John đều rất vất vả để hoàn tất. Theo Davies, những lúc bị cạn nguồn cảm hứng, cả hai lại chơi lại một số bài rock and roll cũ xem có khai thác gì được từ đấy không. Cuối cùng John gợi ý viết bài hát này dưới dạng một câu hỏi xen lẫn với một câu trả lời. Vì John vô ý bị đứt tay trong lúc sáng tác ca khúc này nên cả hai gọi nó là “Bad Finger Boogie” trước khi đổi thành “With a Little Help From My Friend” ngày hôm sau. Cái tên Badfinger sau này trở thành tên của nhóm nhạc the Iveys của Pete Ham do Beatles bảo trợ. Lucy In the Sky With Diamonds (Lennon 8/McCartney 2) McCartney: bass, Hammond organ, hát bè Lennon: lead vocal, lead guitar Harrison: sitar, hát bè Starr: drums Câu chuyện về bài hát này được John sáng tác lấy cảm hứng từ bức tranh vẽ “Lucy in the sky with diamonds” của cậu con trai Julian thì ai cũng biết. Cô bé Lucy trên thực tế có tên là Lucy O‟Donnell, bạn học thời mẫu giáo của Julian. Hiện tại, Lucy là một cô giáo dạy trẻ khuyết tật ở London. Điều thú vị là mãi đến năm 13 tuổi, Lucy mới biết đựoc rằng mình đã ảnh hưởng cho một trong những ca khúc nổi tiếng nhất của nhạc rock. Những hình ảnh siêu thực trong bài hát đựơc John lấy từ hai quyển sách thiếu nhi nổi tiếng của nhà văn Lewis Carroll là “Alice in Wonderland” và “Through the Looking Glass” và chương trình hài kịch Goon Show, một chương trình mà John rất hâm mộ. Theo John, Paul đóng góp những cụm từ như “cellophane flowers” và “newspaper taxi”. Điều mà John không ngờ là bài hát bị cấm phát song trên đài BBC vì các chứ đầu của tựa đề đựơc ghép lại thành LSD. Getting Better (McCartney 65/Lennon 35) Giải mã các ca khúc của The Beatles 52 McCartney: bass, hát chính và hát bè Lennon: lead guitar, hát bè Harrison: lead guitar, tamboura, hát bè Starr: drums, bongos George Martin: piano Paul viết bài hát này dựa trên những kỉ niệm với tay trống Jimmy Nichol, người thay thế Ringo trong tour diễn thế giới năm 1964. Vì chưa quen với các ca khúc của Beatles, Nichol phải tập gấp rút để có thể chơi như Ringo. Sau mỗi lần tập như thế, khi mọi người hỏi anh cảm thấy thế nào, câu trả lời thường xuyên của Nichol là “It‟s getting better”. Trong một ngày nắng đẹp, Paul và chú chó cưng Martha đi dạo trên đồi Primrose, bỗng dưng Paul nhớ lại những câu nói của Jimmy Nicol và bắt đầu có cảm hứng về một bài hát mới. Chiều hôm ấy, Paul mời John đến để giúp mình hoàn tất bài hát. Bài hát thể hiện rất rõ rệt hai cá tính đối lập của hai tay sáng tác chính nhóm Beatles. Trong khi Paul luôn lạc quan cho rằng mọi việc đều có thể trở nên tốt hơn, John lại chem vào một câu lót khá mỉa mai là “bởi vì nó chẳng còn có thể nào tệ hơn thế nữa”. John cũng công nhận đoạn “I used to be cruel to my woman, I beat her and kept her apart from the things that she loves" là do mình viết. Anh tự nhận rằng mình là một kẻ vũ phu với vợ, mỗi khi không biết thể hiện cảm xúc của mình thế nào, John lại giở võ ra với Cynthia. Ngay cả với Yoko thời kì đầu, John cũng dung nắm đấm để giải quyết vấn đề. Một giai thoại khá lí thú khi thu âm ca khúc này là John do ảnh hưởng của LSD đã không dám cầm micro thu âm vì sợ. Anh đòi được ra ngoài để hít thở không khí một chút. Vì bên ngoài studio luôn có hang trăm fan hâm mộ đứng chầu chực bất kể ngày đêm, George Martin đề nghị Mal Evans đưa John lên sân thượng hóng mát. John suýt té lộn cổ xuống đất nếu không có Mal ở đó vì anh không nhận ra rằng sân thượng không có phần lan can bảo vệ. Tối hôm ấy Paul phải đưa John về nhà vì sợ John lái xe một mình không an toàn. Điều đáng nói là khi về tới nhà John, Paul cũng bị John dụ chơi LSD. Đó là lần đầu tiên Paul nếm mùi LSD. Fixing a Hole (McCartney 10) McCartney: bass, harpsichord, lead guitar, hát chính Lennon: maracas, hát bè Harrison: lead guitar, hát bè Starr:drums Bài hát này cũng là một bài trong album SP bị nghi là có dính líu đến ma tuý vì “fixing a joint” là tiếng long của dân nghiện ám chỉ việc hút cần sa. Thật ra bài này nói về công việc sửa chửa lại căn nhà gỗ mà Paul mua ở Scotland để làm nơi thư giãn và trốn các fan hâm mộ. Do căn nhà đã xuống cấp vì không có người ở, Paul quyết định bỏ thời gian ra sửa chữa lại và sơn nó “in a colorful way” như trong bài hát. Hôm thu âm ca khúc này, một kẻ lạ mặt đã xuất hiện trước cửa nhà Paul và tự giới thiệu rằng mình là chúa Jesus. Cảm thấy thú vị, Paul mời ông Jesus này đến phòng thu để giới thiệu với mọi người. Khi đến phòng thu, trứơc khi các tay Beatles khác có vinh dự được gặp mặt Jesus, kẻ mạo danh đã lẳng lặng đánh bài chuồn không để lại dấu vết nào. She‟s Leaving Home (McCartney 65/ Lennon 35) McCartney: hát chính và bè Lennon: hát chính và bè Session musician: strings and harp. Giải mã các ca khúc của The Beatles 53 Thập niên 60, nhất là giai đoạn từ năm 1967 đến 1969 được mệnh danh là giai đoạn nổi loạn của giới trẻ. Thanh thiếu niên của giai đoạn này, dưới sự ảnh hưởng của cuộc chiến VN, các phong trào phản văn hoá và dĩ nhiên là chất ma tuy, tìm mọi cách để thoát khỏi sự quản lí của cha mẹ và những người lớn tuổi để được sống theo bản năng của mình. Được sự khuyến khích của Timothy Leary, một nhân vật có ảnh hưởng khá lớn đối với các phong trào hippie, ngày càng có nhiều thanh thiếu niên bỏ học và từ chối những công việc bình thường. San Francisco trở thành thủ đô của dân hippie. Theo số liệu của FBI năm 1967, số lượng thanh thiếu niên bỏ nhà đi theo các nhóm hippie lên đến con số kỉ lục là 90,000. Ở Anh, mục tìm người thân trên các tờ báo đầy ắp tên tuổi của các cô cậu mới lớn. Câu chuyện về bài hát “She‟s Leaving Home” là một ví dụ điển hình về mẫu tin nhắn tìm người trên báo. Cô gái trong bài hát ngoài đời có tên là Melanie Coe, 17 tuổi. Sinh ra trong một gia đình trung lưu ở London, Melanie được bố mẹ cung cấp đầy đủ nhu cầu về vật chất nhưng luôn phải chịu sự quản thúc nghiêm ngặt và rất ít tình cảm. Melanie nhớ lại rằng bố mẹ cô sắm cho cô những thứ mà các cô gái khác phải ghen tị như nhẫn kim cương, áo khoác long đắt tiền nhưng chưa bao giờ hôn cô hoặc chúc cô ngủ ngon. Một ngày kia, Melanie đã bỏ lại tất cả để đi theo một cậu trai mà cô quen ở một casino. Cả hai thuê một căn hộ nhỏ ở vùng Sussex và sống với nhau được khoảng hơn 10 ngày thì gia đình của Melanie tìm được chỗ làm của người bạn trai và làm áp lực buộc cô phải trở về nhà. Năm 18 tuổi, Melanie lại tìm cách thoát khỏi gia đình bằng cách kết hôn với một người đàn ông lớn tuổi hơn mình. Tuy nhiên cuộc hôn nhân cũng không tồn tại lâu. Đến năm 21, cô dọn đến Hollywood với hi vọng trở thành một diễn viên điện ảnh. Hiện tại Melanie đang sống ở Tây Ban Nha với hai người con bằng nghề buôn bán những mẫu của nữ trang thập niên 50. Cũng như Lucy O‟Donnell ( xem phần Lucy in the Sky with Diamonds), Melanie mãi đến những năm sau này mới biết được mình là cảm hứng của ca khúc này khi xem một chương trình phỏng vấn Paul trên truyền hình. Một điều khá thú vị là Melanie Coe đã có duyên gặp gỡ với nhóm Beatles từ trước. Năm 14 tuổi, cô đoạt giải nhất cuộc thi khiêu vũ của đài BBC và được chọn làm người múa phụ hoạ cho nhóm Beatles trên show truyền hình Ready! Steady! Go! Một tấm ảnh hiếm hoi thời đó chụp Melanie đứng bên cánh gà sân khấu xem nhóm Beatles biểu diễn. Cô nhớ rằng đã có dịp nói chuyện với George và Ringo sau buổi diễn, còn Paul và John trong kí ức của cô thì “không được thân thiện cho lắm”. Khi thu âm bài hát này, Paul nhờ George Martin phổi phần nhạc nền giúp mình vì ông Martin có trình độ về nhạc cổ điển và giao hưởng nhưng vì đang bận một dự án khác, George Martin đã bảo Paul hoãn lại vài ngày. Paul lập tức liên hệ với nhạc sĩ Mike Leander và nhờ ông này viết giúp mình phần nhạc dây và harp rồi thu âm luôn. Khi biết được chuyện này, ông Martin cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm vì trước nay ông vẫn là người phụ trách phối âm và sản xuất cho nhóm. Phải mất nhiều năm ông Martin mới có thể tha thứ cho Paul về sự qua mặt này. Being For the Benefit of Mr. Kite (Lennon 10) McCartney: bass, lead guitar Lennon: Hammon Organ, hát chính Harrison: harmonica Starr:drums, harmonica George Martin: Wurlizter organ, piano Mal Evans: harmonium Neil Aspinall: harmonium Lennon mua được tấm poster cổ những năm 40 của thế kỉ 19 về gánh xiếc rong của Pablo Fanquer và John Henderson trong chuyến đi quay ngoại cảnh của bài “Strawberry Fields” Giải mã các ca khúc của The Beatles 54 ở Kent. Bị hấp dẫn bởi lời văn khá trau chuốt trong tờ quảng cáo, John quyết định sử dụng nó để làm lời cho bài hát mới của mình. Kết quả là gần như toàn bộ những dòng quảng cáo trên tờ poster được John đưa vào bài hát. John chỉ sửa địa danh Rochdale thành Bishopgate cho có vần với “don‟t be late”. Khi thu âm bài hát, John nói với ông George Martin rằng mình muốn ngửi thấy không khí của một rạp xiếc lưu động với mùi bột mạt cưa và kim tuyến bay trong không khí. So với Paul, John có những đòi hỏi khá trừu tượng và mang nhiều tính thách đố hơn trong việc phối âm. Tuy nhiên, điều đó không làm cho ông Martin nản long hay phật ý. Mỗi yêu cầu đưa ra là một thử thách về mặt chuyên môn đối với ông. Để thực hiện ý tưởng này, ông Martin đã đề nghị phần giang tấu chuyển sang điệu valse thay vì chơi với nhịp 4/4 như trong bài hát. Được voi đòi tiên, John lại tiếp tục đòi sử dụng nhạc cụ đàn hơi nước (steam organ), loại nhạc cụ tự chơi nhờ áp suất của hơi nước đun nóng thường dung ở các hội chợ làng trong thế kỉ 19. Do không thể lắp đặt đàn hơi trong phòng thu âm, ông Martin phải chìu long John bằng cách tìm một đoạn băng thu âm tiếng đàn hơi, cắt ra làm nhiều đoạn, sau đó nối các đoạn lại với nhau rồi chơi với tốc độ nhanh ở nhịp ¾ cho khớp với phần giang tấu. Xin được nói một chút về lai lịch của những nhân vật trong bài hát nổi tiếng này. Mr. Kite, Pablo Fanque và nhà Hendersons đều là những nhân vật nổi tiếng có thật. Mr. Kite tên thật là William Kite, con trai của ông chủ gánh xiếc James Kite. Là một diễn viên xiếc, William Kite lập nhóm Kite‟s Pavillion Circus năm 1810 và sau đó là gánh Well‟s Circus. Thời điểm từ năm 1843- 45, tức là thời điểm tấm poster được in, William Kite biểu diễn với gánh xiếc của Pablo Fanque. Pablo Fanque, tên thật là William Darby, là một diễn viên xiếc tạp kĩ sinh năm 1796 trong một gia đình gốc Phi ở Norwich, Anh. Từ năm 1830, ông này đổi tên thành Pablo Fanque và lập gánh xiếc riêng. Ở Anh, Pablo Fanque là chủ gánh xiếc da đen đầu tiên. Nhà Hendersons bao gồm John Henderson, nghệ sĩ đu dây và nhào lộn cùng với vợ là Agnes, cũng là một nghệ sĩ xiếc. Hai vợ chồng lập gánh xiếc rong lưu diễn khắp Châu âu trong thập kỉ 40-50 của thế kỉ 19. Còn chú ngựa Henry trong bài hát có tên là Zanthur, sở hữu của nhà Hendersons. Lúc đầu John tỏ ra không thích bài này vì anh cho rằng mình không tự viết lời. Nhưng về sau, khi trả lời phỏng vấn tạp chí Playboy, John cho rằng đây là một bài hát đẹp và tinh khiết như một bức tranh vẽ bằng màu nước. Within You, Without You (Harrison 10) Harrison: tamboura, vocal Neil Aspinall: tamboura Indian musicians: dilruba (một loại đàn dùng vĩ kéo), tamboura, tabla, sitar, swordmandel Western musicians: 9 violins, three cellos Từ sau khi làm quen với cây đàn sitar và nhà ẩn sĩ Maharishi Maheshi Yogi, George trở nên mê mẩn với văn hoá và âm nhạc Ấn Độ. Từ một thành viên trẻ nhất và ham vui nhất của Beatles, George trở nên thâm trầm, già dặn và đầy triết lí. Bài “Within You, Without You” được George viết sau một buổi ăn tối tại nhà của Klaus Voorman, lúc này đang chơi bass cho nhóm Manfred Mann. George đã sử dụng cây đàn harmonium (một dạng đàn organ có bàn đạp để ngân tiếng) của Klaus để viết bài này với cảm hứng là cuộc đối thoại trong buổi ăn tối mà chủ đề chính là cái tôi của từng cá nhân. Theo George, nếu mọi người có thể từ bỏ được cái tôi của mình thì tự nhiên các bức tường vô hình ngăn cách sẽ bị phá vỡ và mọi người có thể xích lại gần nhau hơn. Một đoạn của bài hát này ảnh hưởng lời răn của chúa Jesus với các tín đồ trong Kinh Thánh rằng không nên dung linh hồn mình để đánh đổi bất cứ thứ gì, cho dù đó là cả thế giới. Bài hát này nâng tầm vóc sáng tác của George lên ngang hang với John và Paul về cả nội dung lẫn nghệ thuật. John phải công nhận rằng đây là một bài hát hay và là bài hát yêu thích của mình. Giải mã các ca khúc của The Beatles 55 Còn Stephen Stills, ca sĩ và nhạc sĩ của nhóm Crosby, Stills and Nash sau khi nghe bài này đã thuê thợ khắc toàn bộ lời bài hát lên bia đá trong vườn nhà mình. Mỗi khi nhóm Beatles có một ý tưởng thu âm lạ, ngư
File đính kèm:
- The_Beatles.pdf