Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng thông qua một số phương pháp dạy học tích cực môn Lịch sử Trung học cơ sở
- Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.
Trong các phương pháp học tập thì mấu chốt là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho học sinh có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho người học lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ nhân lên gấp bội. Vì vậy, phát triển tự học lịch sử trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên.
ự cấp thiết phải thống nhất các tổ chức Cộng sản ở Đông Dương thành một Đảng duy nhất,+ Nội dung Hội nghị thành lập Đảng,+ Nội dung bản Chính cương vắn tắt,+ Nội dung Sách lược vắn tắt, + Ý nghĩa của Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.- Bám sát Chuẩn kiến thức, kĩ năng để thiết kế bài giảng nhằm đạt được các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức, kĩ năng. Không quá tải và quá lệ thuộc hoàn toàn vào SGK, không cố dạy hết toàn bộ nội dung SGK; việc khai thác sâu kiến thức trong SGK phải phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh. Ví dụ: Phong trào dân chủ 1936 - 1939:+ Hoàn cảnh thế giới tác động ảnh hưởng đến nước ta,+ Chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương trong tình hình mới,+ Nét chính diễn biến của các phong trào, kết quả, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm.- Dựa trên cơ sở yêu cầu về kiến thức, kĩ năng trong hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng giáo viên vận dụng sáng tạo, linh hoạt các phương pháp, kĩ thuật dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tự giác học tập của học sinh. Cần chú trọng rèn luyện phương pháp tư duy, năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo niền vui, hứng khởi nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học tập cho học sinh. - Trong tổ chức các hoạt động học tập trên lớp giáo viên cần linh hoạt hơn, tổ chức các hoạt động học tập phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Tùy theo trình độ nhận thức của HS, điều kiện dạy học khác nhau để dạy học linh hoạt, hoặc bám sát chuẩn tối thiểu (hướng dẫn) hoặc dạy ở mức độ cao hơn nhưng vẫn nằm trong chương trình. Như GV tổ chức các hoạt động cá nhân, nhóm, làm việc cả lớp để nắm vững nội dung, sự kiện lịch sử.- Với tài liệu Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ năng, giáo viên hoàn toàn có thể thoát ly sách giáo khoa, thậm chí sử dụng những nguồn tài liệu khác phục vụ việc giảng dạy, chỉ cần không đi chệch ra ngoài chương trình. Giáo dục căn cứ vào Chuẩn kiến thức, kỹ năng để đặt ra yêu cầu cụ thể đối với HS trong quá trình học tập. - Thiết kế và hướng dẫn HS trao đổi, trả lời các câu hỏi, bài tập nhằm nắm vững, hiểu được những yêu về kiến thức, kĩ năng qua đó phát triển tư duy và rèn luyện các kĩ năng thực hành của học sinh như lập bảng thống kê các sự kiện, nhân vật lịch sử, vẽ sơ đồ, biểu đồ, sưu tầm tư liệu lịch sử, viết và trình bày báo cáo kết quả. - Đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy học nhằm tạo sự hứng thú cho HS đối với học tập bộ môn lịch sử như dạy học trên lớp, dạy học tại thực địa, dạy học bảo tàng, tổ chức các hoạt động ngoại khoá, chuyên đềqua đó giúp HS nắm vững và hiểu sâu sắc chuẩn kiến thức, kĩ năng của Chương trình Giáo dục phổ thông. - Dạy học theo hướng dẫn Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần chú trọng rèn luyện các kĩ năng, năng lực thực hành, vận dụng các kiến thức lịch sử, các qui luật bài học lịch sử vào thực tiễn cuộc sống. - Trong việc dạy học theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần chú trọng việc sử dụng hiệu quả các thiết bị dạy học, giáo viên, học sinh tích cực làm đồ dùng, thiết bị dạy học; đồng thời ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học một cách hợp lí. - Tuy nhiên, cần lưu ý rằng dạy học bám sát Chuẩn tối thiểu không có nghĩa là cắt xén, lược bỏ kiến thức trong Chương trình. Giữa các đối tượng HS khác nhau chỉ áp dụng nội dung dạy học khác nhau về mức độ. 2. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP, KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC* Mục tiêu: Giúp HV hiểu khái niệm về PPDH tích cực - Biết được các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực. - Biết vận dung các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy học bộ môn QUAN NIỆM VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học: Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết TW4 khoá VII (1-1993), Nghị quyết TW 2 khoá VIII (12-1996), được thể chế hoá trong Luật Giáo dục sửa đổi năm 2010, được cụ thể hoá trong các văn bản chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo. - Trong Luật Giáo dục sửa đổi năm 2010, điều 28 (2), đã nêu rõ“phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.- Có thể nói cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử nói riêng là hướng tới hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; giáo viên viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập, chống lại lối dạy đọc chép, thói quen học tập thụ động.- Tuy nhiên, cần phải nhận thức đúng rằng đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp truyền thống của bộ môn Lịch sử (trình bày miệng, miêu tả, tường thuật...) mà phải vận dụng một cách hiệu quả các phương pháp dạy học hiện có theo quan điểm dạy học tích cực kết hợp với các phương pháp hiện đại. * Phương pháp dạy học tích cực là "Tích cực hoá là một tập hợp các hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của người học từ thụ động sang chủ động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ đề tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tập". * Thực chất của đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học Lịch sử nói riêng là chuyển từ mô hình "Lấy GV là trung tâm" sang mô hình "lấy HS làm trung tâm" trong dạy học Lịch sử thực chất là phát huy tính tích cực, độc lập nhận thức của người học, trong đó chủ yếu là tư duy.2. Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực môn lịch sử. - Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của HS.Trong tổ chức dạy học lịch sử, học sinh là đối tượng của hoạt động “dạy”, đồng thời là chủ thể của hoạt động “học” - được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức, hướng dẫn, thông qua đó các em tự lực khám phá những điều mình chưa biết trên cơ sở kiến thức đã biết chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên cung cấp. Dạy học theo phương pháp này, giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động và định hướng thái độ cho học sinh. Nội dung và phương pháp dạy học không chỉ phải giúp cho từng học sinh biết, hiểu kiến thức mà còn giúp các em hành động và vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống đòi hỏi.- Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự họcPhương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học. Trong các phương pháp học tập thì mấu chốt là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho học sinh có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho người học lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ nhân lên gấp bội. Vì vậy, phát triển tự học lịch sử trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên. - Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp. Nhóm nhỏ thường từ 4 đến 6 học sinh. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung.Tuy nhiên, trong hoạt động theo nhóm sẽ có hiện tượng ỷ lại, trông chờ vào bạn, nếu không kịp thời uốn nắn, điều chỉnh thì giờ học sẽ chỉ có một số học sinh trong nhóm, lớp tính cực làm việc, còn những học sinh khác thì không. Làm sao trong giờ học mọi học sinh trong nhóm, lớp đều được suy nghĩ nhiều, làm nhiều và phát biểu nhiều về các vấn đề nội dung bài học mà học sinh cần tiếp thu. - Kết hợp đánh giá của giáo viên với tự đánh giá của HSTrong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy - đánh giá góp phần thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học. Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh. Như vậy, từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập của học sinh độc lập hoặc theo nhóm để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. 3. Một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông.Thứ nhất, tăng cường tính trực quan, hình ảnh, khả năng gây xúc cảm về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, nhân vật lịch sử đối với học sinh.Trước hết, cần phải kể đến sự trình bày sinh động, giàu hình ảnh của giáo viên. Đó là tường thuật, miêu tả, kể chuyện, nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử... Bên cạnh đó, cần coi trọng việc sử dụng các phương tiện trực quan: tranh ảnh, bản đồ, lược đồ, sa bàn, mô hình vật thật, phim đèn chiếu, phim video... Cần tận dụng mọi cơ hội, mọi khả năng để học sinh có được phương thức lĩnh hội lịch sử một cách cụ thể, giàu cảm xúc, được trực tiếp quan sát các hiện vật lịch sử, được nghe báo cáo tiếp xúc, trao đổi với các nhân chứng lịch sử, nhân vật lịch sử. Điều này giúp cho học sinh như đang “trực quan sinh động” quá khứ có thực mà hiện không có.Thứ hai, tổ chức có hiệu quả phương pháp hỏi, trả lời, trao đổi.Đây là phương pháp mà trong đó giáo viên đặt ra những câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên, qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Có ba mức độ hỏi và trả lời vấn đáp: vấn đáp tái hiện, vấn đáp giải thích - minh họa và vấn đáp tìm tòi. Vấn đáp tái hiện nhằm gợi ý những kiến thức cơ bản mà học sinh cần nắm, vấn đáp giải thích minh hoạ làm sáng tỏ các vấn đề được đặt ra để hiểu sâu cụ thể; vấn đáp tìm tòi để phát hiện vấn đề mới, phù hợp với trình độ học sinh.Thứ ba, tổ chức dạy học nêu và giải quyết vấn đề - Bản chất của dạy học nêu vấn đề là tạo một chuỗi những tình huống vấn đề và điều kiển hoạt động của HS nhằm tự lực giải quyết những vấn đề đặt ra. - Đặc trưng của cách DH nêu vấn đề:+ Nêu vấn đề (Tạo tình huống có vấn đề): được tạo bởi mâu thuẫn giữa điều HS đã biết với điều chưa biết, từ đó kích thích tính tò mò, khao khát giải quyết vần đề đặt ra.+ Phát biểu vấn đề.+ Giải quyết vấn đề.+ Kết luận: khẳng định hay bác bỏ giả thuyết đã nêu. Thứ tư, tổ chức dạy và học hợp tác trong nhóm nhỏ. Phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ là mới với đa số giáo viên. Phương pháp dạy học hợp tác giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải chỉ là sự tiếp nhận thụ động từ giáo viên. Thành công của bài học phụ thuộc vào sự nhiệt tình tham gia của mọi thành viên, vì vậy phương pháp này còn được gọi là phương pháp cùng tham gia, nó như một phương pháp trung gian giữa sự làm việc độc lập của từng học sinh với sự việc chung của cả lớp. Trong hoạt động nhóm, tư duy tích cực của học sinh phải được phát huy và ý quan trọng của phương pháp này là rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên trong tổ chức lao động. Cần tránh khuynh hướng hình thức và đề phòng lạm dụng, cho rằng tổ chức hoạt động nhóm, là dấu hiệu tiêu biểu nhất của đổi mới phương pháp dạy học, hoạt động nhóm càng nhiều thì chứng tỏ phương pháp dạy học càng mới.Thứ năm, dạy học phải bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng đã được qui định trong chương trình GDPT. Thực tế dạy học hiện nay ở các trường THCS rất nhiều giáo viên không quan tâm đến Chương trình, thậm chí nhiều giáo viên không biết đến chuẩn KT- KN mà chỉ chú ý đến SGK. GV chưa nắm vững được nhận thức hết sức quan trọng đó là chương trình mới là “pháp lệnh”, còn SGK chỉ là cụ thể hoá của chương trình và là tài liệu cơ bản cho HS học tập. Một trong những yêu cầu quan trọng trong việc dạy học hiện nay là GV phải bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng được thể hiện trong chương trình giáo dục phổ thông, thông qua nội dung của SGK để xác định và lựa chọn những nội dung cơ bản nhất, trọng tâm của từng bài học giúp các em học sinh nắm vững những nội dung lịch sử đó với tinh thần “ít nhưng mà tinh, còn hơn nhiều mà thô”.Ngoài ra các phương pháp nêu trên trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông giáo viên có thể sử dụng một số kĩ thuật dạy học sau: - Kĩ thuật điền khuyết:Cho đoạn trích về một vấn đề lịch sử, ý nghĩa, nội dung lịch sử, các nhận định, kết quả nhưng chưa đầy đủ yêu cầu học sinh phải một từ hay một cụm từ để điền vào chỗ trống theo yêu cầu đặt ra. Lưu ý, khi sử dụng kĩ thuật này tránh sử dụng những câu đúng nguyên mẫu trong SGK. Nên nói thẳng, rõ ràng. Trong những câu hỏi buộc phải điền thêm vào các câu, không nên để quá nhiều khoảng trống làm cho các câu trở thành khó xử lí. - Kĩ thuật mảnh ghép : Thường được trình bày dưới dạng một bảng thống kê bao gồm hai cột: cột thời gian- cột sự kiện, hay cột nhân vật với cột sự kiện, cột sự kiện với địa danh lịch sử tuy nhiên trình bày không đúng, học sinh phải ghép các cột sao cho đúng theo yêu cầu đặt ra. - Kĩ thuật ghi các kết quả tổng hợp ra giấy: Cho phép học sinh có một vài phút để trả lời những câu hỏi ra giấy, chẳng hạn: Hôm nay em thấy học cái gì là quan trọng nhất? Câu hỏi quan trọng nào chưa được trả lời? (hoặc có thể các câu hỏi khác, tùy trường hợp). Điều này nâng cao chất lượng của tiến trình học tập và cung cấp cho giáo viên các phản hồi từ học sinh về những chủ đề mà giáo viên đưa ra. - Kĩ thuật đặt tiêu đề: Cho đoạn trích về nội dung lịch sử, vấn đề lịch sử, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân...Tuy nhiên, không cho biết tên tiêu đề, yêu cầu học sinh phải đọc hiểu được nội dung và đặt tên của tiêu đề.NHỮNG ĐIỀU CẦN LƯU Ý- Tài liệu chuẩn KT-KN, do Bộ GD&ĐT ban hành năm 2009 là pháp lệnh để dạy học kiểm tra, đánh giá học sinh và giáo viên.- SGK: là tài liệu hướng dẫn học sinh học tập.- SGV: là tài liệu tham khảo của giáo viên (có thể dùng hoặc không dùng cũng được).- Khi dạy xong bài học thì học sinh phải nắm được cơ bản những chuẩn KT-KN được quy định trong từng bài .- Có thể tinh giảm nội dung kiến thức chứ không bỏ qua khối lượng kiến thức cơ bản mà chuẩn đã qui định.TÓM LẠI:- Dạy học và kiểm tra đánh giá cả giáo viên và học sinh phải tuân thủ theo chuẩn kiến thức và kĩ năng do Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ban hành.3. THỰC HÀNH THIẾT KẾ GIÁO ÁN LỊCH SỬ THEO CHUẨN KT-KN. * Mục tiêu: - Học viên thực hành soạn giảng một bài hoặc một nội dung của bài; biết xác định đúng mục tiêu về kiến thức và kĩ năng của bài học.- Học viên biết cách sử dụng HD chuẩn KT-KN, SGK để soạn bài. - Vận dụng được các phương pháp và kĩ thuật dạy học đã học vào bài soạn. 4. HƯỚNG DẪN VIỆC KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ THEO CHUẨN KT-KN VỚI VIỆC BIÊN SOẠN ĐỀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ* Mục tiêu: - Học viên biên soạn được các loại đề kiểm tra 15 phút, 1 tiết, học kì bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng.- Học viên biết cách sử dụng HD chuẩn KT-KN, SGK để biên soạn đề kiểm tra. Sử dụng Chuẩn kiến thức, kĩ năng bộ môn Lịch sử trong kiến tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh môn Lịch sử, cần phải căn cứ vào Chuẩn kiến thức, kĩ năng đánh giá kết quả học tập của học sinh cho sát, đúng, đảm bảo các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức, kĩ năng sau mỗi bài, mỗi chủ đề (chương), mỗi lớp hay cấp học. Tránh tình trạng không thống nhất giữa dạy học và kiểm tra đánh giá. Quan điểm cơ bản về kiểm tra, đánh giá - Đánh giá là công cụ quan trọng, chủ yếu xác định năng lực nhận thức người học, điều chỉnh quá trình dạy và học; là động lực để đổi mới phương pháp dạy học, góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng đào tạo con người theo mục tiêu giáo dục.- Đánh giá kết quả học tập của học sinh là quá trình thu thập và xử lý thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập về tác động và nguyên nhân của tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường ,cho bản thân học sinh để học sinh học tập ngày một tiến bộ hơn. Kiểm tra là công cụ, phương tiện và hình thức chủ yếu, quan trọng của đánh giá.Công cụ, phương tiện chủ yếu của đánh giá là kiểm tra và hình thức thông dụng là trắc nghiệm- Trắc nghiệm có 2 hình thức cơ bản là: trắc nghiệm tự luận (Tự luận) và trắc nghiệm khách quan (trắc nghiệm)+ Trắc nghiệm tự luận: là hình thức kiểm tra với các câu hỏi dạng mở, yêu cầu học sinh phải tự trình bày ý kiến trong một bài viết để giải quyết vấn đề nêu ra.+ Trắc nghiệm khách quan: là phương pháp kiểm tra, thi mà trong đó đề kiểm tra, đề thi thương gồm nhiều câu hỏi, mỗi câu nêu ra một vấn đề cùng với những thông tin cần thiết, sao cho thí sinh chỉ phải trả lời vắn tắt đối với từng câu.Kiểm tra theo chuẩn kiến thức, kĩ năng trong chương trình GDPTViệc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh phải đảm bảo bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng trong chương trình GDPT.- Kiểm tra thường xuyên: + Kiểm tra vấn đáp: được sử dụng trước, trong và sau khi học bài mới.+ Kiểm tra 15 phút: được sử dụng sau khi kết thúc một hoặc một số tiết học.- Kiểm tra định kì: Được sử dụng sau khi kết thúc một hoặc một số chương, phần, mô đun, chủ đề, chủ điểm.Mục tiêu đổi mới kiểm tra, đánh giá- Đổi mới kiểm tra, đánh giá đã góp phần khắc phục được tình trạng học thụ động theo kiểu chép lại bài giảng, học thuộc lòng kiến thức mà không biết vận dụng kiến thức, đồng thời thay đổi cách thức học bài trên lớp và học bài ở nhà của học sinh, loại bỏ dần lối học tủ, học lệch.- Đánh giá toàn diện về kiến thức, kĩ năng, năng lực, ý thức, thái độ người học.- Đánh giá đúng thực chất trình độ, năng lực người học.- Tạo thuận lợi hơn và đảm bảo tốt hơn lợi ích của người học.Các tiêu chí của kiểm tra, đánh giá - Đảm bảo tính toàn diện - Đảm bảo độ tin cậy - Đảm bảo tính khả thi - Đảm bảo yêu cầu phân hoá - Đảm bảo hiệu quả cao. Các mức độ nhận thức trong đề kiểm tra Phải đảm bảo sự cân đối các yêu cầu kiểm tra về kiến thức (nhớ, hiểu, vận dụng), rèn luyện kỹ năng và yêu cầu về thái độ đối với học sinh và hướng dẫn học sinh biết tự đánh giá kết quả học tập, rèn luyện năng lực tự học và tư duy độc lập. Cần khắc phục tình trạng nặng về kiểm tra ghi nhớ kiến thức một cách máy móc (ngày tháng, sự kiện, nhân vật lịch sử); tăng cường ra đề “mở” nhằm kiểm tra mức độ thông hiểu và vận dụng tổng hợp kiến thức để giải quyết vấn đề; rèn luyện các kỹ năng và học sinh được tự do biểu đạt chính kiến khi trình bày, hiểu biết và tôn trọng các giá trị lịch sử, văn hóa của quê hương đất nước.C¸c cÊp ®é nhËn thøcMiªu t¶ Nhận biếtThông hiểuVận dụng Lµ nhí l¹i nh÷ng d÷ liÖu ®· häc, t¸i hiÖn trong trÝ nhí nh÷ng th«ng tin cÇn thiÕt §èi víi lÞch sö lµ ghi nhí sù kiÖn, thêi gian, nh©n vËt, ®Þa danh, t¸i hiÖn l¹i nh÷ng sù kiÖn, hiÖn tîng, c¸c bµi häc lÞch sö Lµ kh¶ n¨ng n¾m ®îc ý nghÜa c¸c tµi liÖu §èi víi lÞch sö lµ n¾m ®îc ý nghÜa b¶n chÊt c¸c sù kiÖn lÞch sö, mèi quan hÖ bªn trong gi÷a c¸c sù kiÖn, so s¸nh, ph¸n ®o¸n, ®¸nh gi¸ sù kiÖn- Lµ kh¶ n¨ng sö dông tµi liÖu ®· häc vµo hoµn c¶nh cô thÓ, míi, t×nh huèng t¬ng tù hoÆc ®æi kh¸c, gi¶i quyÕt vÊn ®Ò ®Æt ra. Trªn c¬ së biÕt, hiÓu ®i ®Õn vËn dông.VËn dông: + TiÕp thu kiÕn thøc míi + Träng cuéc sèng hiÖn t¹iQuy trình kiểm tra đánh giá.1. Xác định mục đích kiểm tra đánh giá.2. Xây dựng ma trận hai chiều.3. Lựa chọn thiết kế câu hỏi.4. Xây dựng đáp án và biểu điểm.5. Tiến hành kiểm tra.6. Xử lý kết quả kiểm tra. Lựa chọn thiết kế câu hỏi. 1. Về câu hỏi mức độ nhận biết kiến thức lịch sử: Số lượng câu hỏi và ý hỏi chiếm khoảng từ 50% - 60% tùy vào khả năng của học sinh (khoảng từ 5đ - 6đ đối với bài kiểm tra có thang điểm 10đ) 2. Câu hỏi ở mức độ thông hiểu kiến thức lịch sử: Số lượng câu hỏi và ý hỏi chiếm khoảng từ 30% - 40% tùy vào khả năng của học sinh (khoảng từ 3đ - 4đ đối với bài k
File đính kèm:
- chuan_KTKN_LIch_su_20150614_062141.ppt