Một số vấn đề về công tác tư tưởng, tuyên giáo trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam
Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác tuyên giáo là tập trung cho đội ngũ kế cận để trong khoảng 5, 10 năm tới sẽ có một chủ thể mới đảm đương chủ yếu công tác tư tưởng của Đảng. Đó là thế hệ cán bộ trẻ hiện nay đang công tác và được đào tạo một cách hệ thống bài bản, chính quy trong thời gian tới.
Một số nhiệm vụ cụ thể:
- Quy hoạch đội ngũ, bảo đảm có các loại hình, các thế hệ cán bộ tuyên giáo nối tiếp nhau vững chắc: cán bộ lãnh đạo, quản lý, chuyên gia đầu ngành, đội ngũ kế cận và đội ngũ trẻ để tạo nguồn.
Tổ chức đánh giá toàn diện thực trạng đội ngũ cán bộ tuyên giáo từ Trung ương đến cơ sở, dự kiến nhu cẩu, khả năng tạo nguồn và phát triển đội ngũ, chủ động xây dựng và thực hiện nghiêm túc mô hình tổ chức, bộ máy của các ban tuyên giáo từ Trung ương đến cấp xã, phường, thị trấn và của các bộ, ngành, đoàn thể chính trị - xã hội. Nghiên cứu xác định rõ mô hình cán bộ tuyên giáo cấp xã, phường, thị trấn. Đặc biệt quan tâm tới phương thức riêng, phù hợp với đặc trưng nghề nghiệp cán bộ tuyên giáo để chủ động tạo được nguồn cán bộ tuyên giáo.
- Lập kế hoạch dài hạn và hàng năm, khẩn trương thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tuyên giáo. Thực hiện nhiệm vụ đào tạo nhằm bảo đảm cán bộ chuyên trách tuyên giáo phải được đào tạo bài bản, chính quy, có khả năng phát triển lâu dài bằng nghề nghiệp và tạo nguồn cho cán bộ của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị.
Xác định nguồn đào tạo cán bộ tuyên giáo từ việc lựa chọn các sinh viên tốt nghiệp đại học ớ trình độ khá trở lên trong các trường đại học có ngành nghề gắn với các lĩnh vực nghiệp vụ tuyên giáo và trong các trường Đại học sư phạm có phẩm chất đạo đức tốt đã qua một thời gian công tác, có năng khiếu phù hợp với đặc trưng nghề nghiệp tuyên giáo, đồng thời chú trọng lựa chọn số cán bộ trẻ đang công tác trong tổ chức đoàn thanh niên các cấp, trong lực lượng vũ trang và trong hệ thống chính trị.
Đổi mới căn bản, xây dựng mới chương trình, nội dung đào tạo cán bộ ngành Tuyên giáo theo hướng nâng cao trình độ và kiến thức tổng hợp gắn chặt với các yêu cầu nghề nghiệp, kết hợp giữa học lý luận và thực hành nghiệp vụ. Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hô Chí Minh, Học viện Báo chí và Tuyên truyền khẩn trương xây dựng kế hoạch chương trình, nội dung đào tạo theo hướng chỉ đạo trên bảo đảm sau 5 năm có được mô hình ổn định về đào tạo cán bộ tuyên giáo các cấp
Trung ương đến cấp xã, phường, thị trấn và của các bộ, ngành, đoàn thể chính trị - xã hội. Nghiên cứu xác định rõ mô hình cán bộ tuyên giáo cấp xã, phường, thị trấn. Đặc biệt quan tâm tới phương thức riêng, phù hợp với đặc trưng nghề nghiệp cán bộ tuyên giáo để chủ động tạo được nguồn cán bộ tuyên giáo. - Lập kế hoạch dài hạn và hàng năm, khẩn trương thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tuyên giáo. Thực hiện nhiệm vụ đào tạo nhằm bảo đảm cán bộ chuyên trách tuyên giáo phải được đào tạo bài bản, chính quy, có khả năng phát triển lâu dài bằng nghề nghiệp và tạo nguồn cho cán bộ của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị. Xác định nguồn đào tạo cán bộ tuyên giáo từ việc lựa chọn các sinh viên tốt nghiệp đại học ớ trình độ khá trở lên trong các trường đại học có ngành nghề gắn với các lĩnh vực nghiệp vụ tuyên giáo và trong các trường Đại học sư phạm có phẩm chất đạo đức tốt đã qua một thời gian công tác, có năng khiếu phù hợp với đặc trưng nghề nghiệp tuyên giáo, đồng thời chú trọng lựa chọn số cán bộ trẻ đang công tác trong tổ chức đoàn thanh niên các cấp, trong lực lượng vũ trang và trong hệ thống chính trị. Đổi mới căn bản, xây dựng mới chương trình, nội dung đào tạo cán bộ ngành Tuyên giáo theo hướng nâng cao trình độ và kiến thức tổng hợp gắn chặt với các yêu cầu nghề nghiệp, kết hợp giữa học lý luận và thực hành nghiệp vụ. Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hô Chí Minh, Học viện Báo chí và Tuyên truyền khẩn trương xây dựng kế hoạch chương trình, nội dung đào tạo theo hướng chỉ đạo trên bảo đảm sau 5 năm có được mô hình ổn định về đào tạo cán bộ tuyên giáo các cấp - Cùng với công tác đào tạo chính quy, ngành Tuyên giáo ở Trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải tăng cường và có kế hoạch định kỷ bồi dưỡng tập huấn đội ngũ cán bộ tuyên giáo về lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt rèn luyện cán bộ qua hoạt động thực tiễn, đồng thời bảo đảm nâng cao trình độ chính trị theo yêu cầu nghệ nghiệp, trình độ sủ dụng ngoại ngữ và tin học cho cán bộ đang công tác, đặc biệt đối với đội ngũ kế cận, đội ngũ trẻ. - Xây dựng và thực hiện một số chính sách chế độ mới đối với cán bộ chuyên trách công tác tuyên giáo, trong đó chú ý những yêu cầu đặc thù về nghề nghiệp; xây dựng các tiêu chuẩn cụ thể đánh giá kết quả hoạt động của từng loại hình cán bộ tuyên giáo; nghiên cứu, đề xuất chế độ, chính sách đào tạo và bồi dưỡng đối với cán bộ tuyên giáo; cán bộ lãnh đạo, quản lý, chuyên gia về nghiệp vụ nhằm khuyến khích, tạo điểu kiện cho cán bộ phát triển lâu dài về nghề nghiệp; nghiên cứu các hình thức phù hợp tôn vinh căn bộ tuyên giảo có thành tích xuất sắc, có cống hiến lớn đối với ngành Tuyên giáo V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGHIỆP VỤ TUYÊN GIÁO 5.1. Công tác giáo dục lý luận chính trị 5.1.1. Khái niệm Công tác giáo dục lý luận chính trị là một bộ phận cơ bản trong công tác tư tưởng của Đảng, thực hiện việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Công tác giáo dục lý luận chính trị nhằm hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhận thức tư tưởng, bản lĩnh chính trị, niềm tin và năng lực hoạt động thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ phát triển của đất nước. 5.1.2. Vai trò công tác giáo dục lý luận chính trị Công tác giáo dục lý luận chính trị có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, xuất phát từ những yếu tố sau: Thứ nhất, vai trò của lý luận chính trị đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định vai trò của lý luận chính trị đối với vận động của cách mạng. Để lật đổ được chế độ xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới, cần có sự lãnh đạo của một đảng được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết mang bản chất khoa học và cách mạng, học thuyết vừa phản ánh đúng đắn những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, vừa chỉ ra mục tiêu, con đường, lực lượng, chiến lược, sách lược, phương pháp đấu tranh cách mạng. Chính đảng của giai cấp công nhân không ra đời một cách tự phát. Đó là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước là cơ sở vật chất, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở tinh thần cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, không có sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân thì không thể có sự ra đời của Đảng. Chủ nghĩa Mác - Lênin giúp giai cấp công nhân hiểu được quy luật phát triển của xã hội, là cơ sở lý luận khoa học để các đảng cộng sản đề ra đường lối, chính sách và những giải pháp cụ thể nhằm giải quyết đúng đắn những vấn đề nảy sinh trong quá trình cách mạng. Vì vậy, các đảng cộng sản phải coi trọng công tác giáo dục lý luận chính trị cho đảng viên cũng như tất cả các lực lượng cách mạng. Đối với Đảng ta, chủ nghĩa Mác - Lênin được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vận dụng và phát triển sáng tạo trong quá trình truyền bá vào Việt Nam và trực tiếp lãnh đạo cách mạng nước ta, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng. Nội dung chủ yếu của công tác giáo dục lý luận chính trị là giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng. Thứ hai, công tác giáo dục lý luận chính trị giữ vai trò quan trọng trong mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trước khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào nước ta thì các cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống chủ nghĩa thực dân và phong kiến luôn bị thất bại vì chưa có đường lối cứu nước đúng đắn. Sự bế tắc ấy chỉ được khắc phục khi đồng chí Nguyễn Ái Quốc tìm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin - chân lý của thời đại và truyền bá, phát triển sáng tạo trong điều kiện nước ta. Từ đó, nhân dân ta theo Đảng thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giành được những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử . Công tác giáo dục lý luận chính trị trang bị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm xây dựng cho mọi người nhận thức đúng đắn và niềm tin vững chắc vào lý tưởng cộng sản, vào con đường và biện pháp do Đảng vạch ra để thực hiện lý tưởng đó. Chủ nghĩa xã hội là kết quả hoạt động cách mạng tự giác của hàng triệu người lao động. Chính công tác giáo dục lý luận chính trị góp phần quan trọng trong việc nâng cao trình độ giác ngộ của quần chúng, thúc đẩy hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị cụ thể mà các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội giao phó. Từ khi ra đời đến nay, công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc làm cho lý luận cách mạng thâm nhập vào quần chúng, trở thành “lực lượng vật chất” đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Thứ ba, công tác giáo dục lý luận chính trị có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng, xây dựng con người mới. Thông qua giáo dục lý luận chính trị để nâng cao trình độ lý luận chính trị trong toàn Đảng, là cơ sở quan trọng để Đảng ta hình thành nên đường lối chính trị đúng đắn. Thông qua công tác giáo dục lý luận chính trị đã góp phần làm cho toàn Đảng thống nhất mục tiêu lý tưởng, cương lĩnh, đường lối, khắc phục mọi biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng. Thông qua công tác giáo dục lý luận chính trị góp phần nâng cao ý thức tự giác tu dưỡng đạo đức cách mạng, khắc phục chủ nghĩa cá nhân trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đồng thời, giáo dục lý luận chính trị cũng góp phần vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo gồm những người kiên định lập trường, có năng lực tổ chức, tập hợp, động viên, giáo dục, thuyết phục quần chúng; có năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn. Chính vì vậy, công tác giáo dục lý luận chính trị có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng Đảng từ Trung ương đến cơ sở. 5.1.3.Yêu cầu, nhiệm vụ công tác giáo dục lý luận chính trị trong thời kì mới Hiện nay toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ mới hết sức nặng nề. Bên cạnh những thuận lợi chúng ta còn phải đương đầu với không ít khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động rất phức tạp. Trong khi đó, không ít những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong quá trình đổi mới đất nước chưa được tổng kết kịp thời hoặc chưa đủ sáng tỏ, còn những ý kiến khác nhau cả trên vấn đề cụ thể cũng như trên một số vần đề cơ bản. Mặt khác, các lực lượng thù địch đang tăng cường chống phá cách mạng nước ta trên cả lĩnh vực lý luận và thực tiễn. Chúng triệt để sử dụng kinh tế làm điều kiện ép ta thay đổi về chính trị; tìm cách móc nối với các đối tượng cơ hội chính trị, bất mãn trong nước; lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”, “chống tham nhũng, tiêu cực” để kích động chống đối, chia rẽ nội bộ, xuyên tạc, phủ định mục tiêu lý tưởng, con đường của cách mạng Việt Nam, phủ định sự lãnh đạo của Đảng. Trong tình hình ấy, cán bộ, đảng viên phải luôn luôn vững vàng về tư tưởng chính trị, thống nhất nhận thức, ý chí và hành động trên nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng. Công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên và toàn dân phải không ngừng được nâng cao chất lượng và hiệu quả. a. Yêu cầu của công tác giáo dục lý luận chính trị trong thời kỳ mới Một là, tạo ra sự nhất trí cao đối với đường lối của Đảng, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, đẩy mạnh sự nghiệp cụng nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hai là, xây dựng con người Việt Nam đủ khí phách bản lĩnh, phẩm chất, đạo đức và kiến thức trong thời kỳ mới, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa, "dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh". Ba là, phát huy tinh thần cách mạng tiến công, giữ vững và tăng cường chủ động trên trận địa tư tưởng, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn và hành động “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá của các thế lực thù địch. b. Nhiệm vụ của công tác giáo dục lý luận chính trị trong thời kì mới Một là, tiếp tục giáo dục trong Đảng và nhân dân kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghiã Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng, làm cho ý chí kiên định đó trở thành lập trường chính trị không thể lay chuyển, kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch, ngăn ngừa ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc. Kiên định nhưng phải sáng tạo, phát triển không ngừng. Hai là, tiếp tục giáo dục sâu rộng trong Đảng và nhân dân đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Giai đoạn hiện nay cần tập trung quán triệt quan điểm cơ bản của Đảng như: Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011), Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội 2011-2015, các quan điểm, đường lối phát triển đất nước trên những lĩnh vực khác…tập trung sức nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Ba là, giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, kiến thức và năng lực thực tiễn của cán bộ, đảng viên và nhân dân, thực hiện thắng lợi việc "Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", Nghị quyết TW 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Bốn là, giáo dục, nâng cao cảnh giác, chống các âm mưu, thủ đoạn và hành động “diễn biến hoà bình” gây bạo loạn, lật đổ và răn đe quân sự của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ bản chất và mức độ nguy hiểm của chiến lược “diễn biến hoà bình”, động viên nhân dân tích cực tham gia chống lại âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình” bảo vệ chế độ, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đồng thời, phải tăng cường phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc, không ngừng củng cố mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. 5.2. Công tác tuyên truyền, cổ động 5.2.1. Khái niệm Tuyên truyền, cổ động theo nghĩa rộng là hoạt động có mục đích của một chủ thể nhằm truyền bá những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng đến đối tượng, biến những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng đó thành nhận thức, niềm tin, tình cảm, cổ vũ đối tượng hành động theo những định hướng do chủ thể tuyên truyền đặt ra. Cùng với công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động là ba bộ phận hợp thành của công tác tư tưởng. Tuyên truyền và cổ động là hai hình thái của công tác tư tưởng, có mối quan hệ, gắn bó mật thiết với nhau. Tuy phương thức tiến hành có sự khác nhau, nhưng tuyên truyền và cổ động đều nhằm mục đích phổ biến, truyền bá tri thức, giáo dục nhận thức, vận động, tổ chức, cổ vũ, động viên quần chúng tự giác tham gia phong trào hành động cách mạng. Về tuyên truyền, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là "đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó là tuyên truyền thất bại ” 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Sự thật, Hà nội, 1985, tr.162. . Về cổ động, cần hiểu là thông qua những phương thức, công cụ riêng, chủ yếu là các biện pháp trực quan, tác động trực tiếp vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm, của quần chúng nhân dân, lôi cuốn họ vào những hoạt động theo mục tiêu đã định. 5.2.2. Vai trò của công tác tuyên truyền, cổ động Tuyên truyền, cổ động là những bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng. Trong điều kiện bùng nổ thông tin, công tác tuyên truyền, cổ động càng trở nên quan trọng để định hướng thông tin, làm cho cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân tiếp nhận các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách đầy đủ, đúng đắn. Vai trò quan trọng của công tác tuyên truyền, cổ động thể hiện tập trung ở các khía cạnh sau: - Là phương tiện quan trọng để phổ biến, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những vấn đề thời sự lớn của đất nước và quốc tế, những vấn đề mới đặt ra trong sự nghiệp đổi mới, qua đó nâng cao nhận thức chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân; động viên mọi người thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị trong mỗi thời kỳ. Là công cụ để định hướng tư tưởng, hướng dẫn suy nghĩ và hành động của toàn xã hội. Góp phần quan trọng để xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Qua tuyên truyền, cổ động để phát huy vai trò làm chủ, tính tích cực, sáng tạo của quần chúng, trước hết là ở cơ sở trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. - Góp phần tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường sự đồng thuận trong xã hội. - Là công cụ sắc bén trong đấu tranh bảo vệ chân lý, chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; phê phán các quan điểm sai trái, lệch lạc nảy sinh trong cán bộ, đảng viên và nhân dân trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. 5.2.3. Những hình thức chủ yếu của tuyên truyền, cổ động Hình thức tuyên truyền, cổ động rất đa dạng, nhưng tập trung vào mấy loại hình sau đây: Tuyên truyền - Tuyên truyền miệng. Đây là hình thức tuyên truyền đặc biệt quan trọng, nhất là ở cơ sở, được thực hiện chủ yếu bởi đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, thông qua các hình thức giao tiếp trực tiếp, như nói chuyện thời sự, tọa đàm, hội thảo, kể chuyện gương người tốt, việc tốt ... - Tuyên truyền thông qua các ấn phẩm viết, như sách, báo (báo in, báo điện tử), bản tin, khẩu hiệu, biểu ngữ, truyền đơn, tờ gấp…. - Tuyên truyền qua nghe, nhìn, như phát thanh, truyền hình, phim ảnh, triển lãm, tham quan.., trong đó vai trò của truyền hình ngày càng trở nên quan trọng do tính phổ cập, nhanh chóng và rộng rãi trong toàn xã hội. - Tuyên truyền bằng các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thông qua các hoạt động của ngành văn hóa, nghệ thuật... - Tuyên truyền tổng hợp, kết hợp cổ động, tuyên truyền miệng, phim ảnh, thơ ca, hò, vè... (tuyên truyền lồng ghép). Cổ động - Cổ động miệng qua hệ thống loa, phát thanh, truyền thanh, v.v. - Cổ động bằng panô, áp phích, các khẩu hiệu. - Cổ động bằng và trên các phương tiện thông tin đại chúng. - Cổ động bằng tuần hành, mít tinh... Mỗi hình thức tuyên truyền, cổ động nêu trên đều quan trọng và có ưu thế riêng. Việc quyết định sử dụng hình thức nào phải xuất phát từ nội dung, tính chất và yêu cầu cụ thể của từng vấn đề, từng đợt tuyên truyền, đối tượng và khả năng kinh tế của địa phương, cơ sở. 5.2.4. Nguyên tắc cơ bản của công tác tuyên truyền, cổ động Công tác tuyên truyền, cổ động có các nguyên tắc cơ bản sau: a. Tính đảng - Tính đảng là một trong những nguyên tắc cơ bản của công tác tuyên truyền, cổ động. Nguyên tắc tính đảng đòi hỏi việc xem xét, lý giải mọi hiện tượng, sự kiện của đời sống xã hội đều phải dựa trên lập trường, quan điểm, của giai cấp công nhân, vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. - Nguyên tắc tính đảng trong công tác tuyên truyền, cổ động đòi hỏi người làm công tác tuyên truyền, cổ động phải có niềm tin vững chắc vào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Nội dung tuyên truyền, cổ động phải định hướng xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhân sinh quan cách mạng cho quần chúng. - Phải nêu cao tính chiến đấu trong công tác tuyên truyền, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, phản động, các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân. b. Tính khoa học, thực tiễn - Tính khoa học đòi hỏi công tác tuyên truyền, cổ động phải phân tích, đánh giá, tìm ra mối liên hệ giữa các hiện tượng và lý giải đúng đắn bản chất sự việc, và hiện tượng trên cơ sở khoa học. - Công tác tuyên truyền phải xuất phát từ thực tiễn và phục vụ thực tiễn ở cơ sở, tham gia giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra. - Nội dung, hình thức tuyên truyền, cổ động phải phù hợp với từng đối tượng cụ thể. c. Tính chân thực - Tính chân thực là nguyên tắc quan trọng của công tác tuyên truyền. Tính chân thực đòi hỏi việc tuyên truyền, cổ động phải giải thích những thành tựu cũng như những sai lầm, thiếu sót trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội một cách trung thực, khách quan. - Tính chân thực không mâu thuẫn với việc cân nhắc cái gì nên nói, cái gì có thể đưa công khai, cái gì cần thông tin nội bộ. Vấn đề cơ bản là nội dung tuyên truyền, cổ động đưa ra phải chân thực, đúng đắn, có tác động tích cực đến tư tưởng của các tầng lớp nhân dân, không được nói dối, nói quá, thổi phồng, bao che, xuyên tạc sự thật... d. Tính chiến đấu - Tính chiến đấu chính là bản chất của công tác tuyên truyền, cổ động chính trị. Tính chiến đấu biểu hiện ở sự nhạy bén chính trị, tinh thần tiến công cách mạng trong thực hiện tuyên truyền, cổ động. - Trong mỗi sự việc cần phân biệt rõ ràng sai - đúng, phải - trái, phù hợp - không phù hợp, biểu dương, phê phán kịp thời. - Tính chiến đấu còn thể hiện ở việc kiên quyết phê phán các luận điệu tuyên truyền phản động, phản khoa học, trái với quan điểm, đường lối của Đảng. e. Tính phổ thông, đại chúng Tính phổ thông, đại chúng trong công tác tuyên truyền đòi hỏi: - Tuyên truyền, cổ động phải đến với toàn dân, muốn vậy cách nói, cách làm trong tuyên truyền phải bám sát từng đối tượng để chọn
File đính kèm:
- Chuyen de (7)- Công tác tư tưởng- NVCT tuyên giáo.doc