Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế của Việt Nam
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quán triệt những phương hướng rõ ràng trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong những thập kỷ tới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ: “Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, điều cần thiết trước hết là nắm vững định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta”( ).
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 tái khẳng định: “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược.
Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức
Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ”( ).
ỗn hợp giữa các hình thức sở hữu và là kết quả của sự hợp tác, liên doanh giữa các chủ sở hữu khác nhau là nhà nước, tập thể (nhóm) và tư nhân. Công hữu ngày càng trở thành nền tảng vững chắc, các hình thức sở hữu khác cùng phát triển mạnh mẽ không hạn chế và đan xen, hỗn hợp với nhau theo luật định cần được xem là chế độ kinh tế cơ bản của giai đoạn phát triển theo định hướng XHCN ở nước ta. Trước đây, theo quan niệm truyền thống, các hình thức sở hữu là đơn nhất: nhà nước, tập thể hoặc tư nhân. Trong gần 20 năm đổi mới, kinh tế hỗn hợp đang được hình thành và từng bước phát triển mạnh; chế độ cổ phần đang dần trở thành hình thức tổ chức chủ yếu của kinh tế công hữu. Vì thế, công hữu không chỉ bao gồm sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể đơn nhất mà còn bao gồm cả phần sở hữu của nhà nước và tập thể trong kinh tế hỗn hợp. Cũng như vậy, tư hữu không chỉ bao gồm sở hữu tư nhân đơn nhất mà còn bao gồm cả phần sở hữu của tư nhân trong kinh tế hỗn hợp. Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, hình thức đơn nhất của công hữu có xu hướng giảm nhưng ý nghĩa nền tảng của công hữu ngày càng được củng cố vững chắc và được tăng cường ở những lĩnh vực then chốt, thể hiện ở: - Vốn của kinh tế công hữu (bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và phần công hữu trong kinh tế hỗn hợp) vẫn đóng vai trò quan trọng trong tổng vốn đầu tư XH. - Kinh tế nhà nước nắm giữ các vị trí then chốt trong nền kinh tế. Một yêu cầu khách quan của thị trường và kinh tế thị trường là phải xác nhận và xác định quyền sở hữu dưới dạng tiền tệ những đóng góp tài sản, tiền vốn, trí tuệ, v.v. vào kinh doanh nhằm lượng hoá quyền sở hữu của từng chủ sở hữu. Không có quyền sở hữu chung chung, vô chủ, cũng không có quyền sở hữu như nhau cho tất cả mọi người trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. e) Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt. Đó là những "đài chỉ huy", là huyết mạch chính của nền kinh tế. Đây là điều kiện có tính nguyên tắc bảo đảm tính định hướng XHCN. Nó thể hiện sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN so với các mô hình kinh tế thị trường khác. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được thể hiện trước hết và chủ yếu ở sức mạnh định hướng, hỗ trợ phát triển và điều tiết nền kinh tế chứ không phải ở quy mô và sự hiện diện của các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước ở tất cả hoặc hầu hết các ngành, các lĩnh vực. Đồng thời với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vai trò điều tiết của Nhà nước, cần coi trọng vai trò của các thành phần kinh tế khác. Các thành phần này gắn bó hữu cơ với nhau trong một thể thống nhất, không tách rời kinh tế nhà nước ở tất cả các giai đoạn phát triển và đều là những thực thể của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Mọi DN đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật; quyền bình đẳng về cơ hội phát triển và lợi ích chính đáng được pháp luật bảo vệ. f) Giải quyết hài hòa mục tiêu tăng trưởng kinh tế và mục tiêu bảo đảm công bằng xã hội Tăng trưởng kinh tế và công bằng, tiến bộ xã hội là hai nội dung của sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững ở nước ta. Tính định hướng XHCN đòi hỏi phải bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội; thực hiện sự thống nhất và gắn liền hữu cơ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội ở tất cả các giai đoạn của sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Tăng trưởng kinh tế đồng thời với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục, vì mục tiêu phát triển con người và mang đậm bản sắc của đất nước và con người Việt Nam là những nội dung cấu thành của phát triển nhanh, hiệu quả, hiện đại và bền vững trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Bản chất của CNXH là công bằng. Song, cũng cần nhấn mạnh công bằng XH trong kinh tế thị trường định hướng XHCN khác chất với chủ nghĩa bình quân, cào bằng thu nhập và chia đều đói nghèo cho mọi người. Không thể có CNXH và định hướng XHCN trong tình trạng đói nghèo và chậm phát triển. Trước đây, CNXH "hiện thực" đã giải quyết không tốt vấn đề công bằng kinh tế. Trong thực tiễn, cơ chế thực hiện công bằng (kế hoạch hoá tập trung) có khuynh hướng dẫn tới sự cào bằng, "bình quân". Cách hiểu này là cơ sở lý luận của thực tế phân phối bình quân sự đói nghèo và thiếu hụt, thủ tiêu động lực phát triển của chính CNXH. Ngược lại, trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường, cách thức phân phối ngày càng ít bình quân - cào bằng đã giúp giải quyết cả hai vấn đề: tăng trưởng và phát triển nhanh; đồng thời nâng cao phúc lợi cho tất cả mọi người, đưa nhiều người thoát khỏi cảnh đói nghèo. Với hai kết quả này, quá trình chuyển sang kinh tế thị trường thật sự đồng hướng với CNXH. Tuy nhiên, vẫn còn một vấn đề là sự phân hoá giàu nghèo, cơ sở sâu xa của những bất bình đẳng xã hội tiềm tàng khác. Xu hướng này, xét "tĩnh tại", không phù hợp với mục đích tối cao (cuối cùng) của CNXH. Vì vậy, trên quan điểm định hướng XHCN, có hai vấn đề đặt ra. Một là, hiểu thế nào về công bằng trong nền kinh tế thị trường. Hai là, hiểu thế nào là công bằng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hai nội dung đó được cụ thể hoá thành hàng loạt câu hỏi. Đó là: - Định hướng XHCN của phân phối trong kinh tế thị trường được thể hiện ở nội dung nào? - Cần làm gì và làm như thế nào để cơ chế kinh tế và chế độ phân phối có thể bảo đảm tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh gắn liền với công bằng xã hội trong từng bước phát triển? - Nhà nước làm gì, với công cụ nào để kiềm chế bóc lột, thúc đẩy xoá đói giảm nghèo để thực hiện được trên thực tế định hướng XHCN trong phát triển? Thời gian qua, sự lúng túng trong nhận thức bản chất của nền kinh tế chuyển đổi ở nước ta và thái độ thiếu triệt để trong việc hoạch định chính sách một phần quan trọng bắt nguồn từ việc chưa trả lời trực diện và rõ ràng các câu hỏi nêu trên. Về nguyên tắc, cần có cách tiếp cận mới đến vấn đề công bằng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thứ nhất, cần xác định rõ và giải quyết tốt mối quan hệ kết hợp giữa mục tiêu tăng trưởng và phát triển (mục tiêu thoát khỏi tụt hậu phát triển cho dân tộc Việt Nam) và mục tiêu công bằng xã hội trong từng giai đoạn cụ thể. Thứ hai, cần quan niệm công bằng xã hội trước hết là sự bình đẳng về cơ hội phát triển và dân chủ hoá đời sống kinh tế - xã hội của mọi người dân, mọi chủ thể kinh tế và mọi vùng miền của đất nước. Đồng thời, phải chấp nhận ở mức độ nào đó sự chênh lệch về trình độ phát triển, thu nhập chính đáng, về dân trí trong từng thời kỳ, giữa các vùng miền và tầng lớp dân cư cụ thể. Dĩ nhiên, không được phép để độ doãng của sự chênh lệch này làm tổn hại đến ổn định chính trị - xã hội. Chấp nhận chênh lệch để từng bước thu hẹp chênh lệch trong mỗi bước phát triển của đất nước là một thực tế khách quan trong phát triển ở nước ta hiện nay. Thứ ba, cần trả lời câu hỏi nhà nước phải làm gì và làm như thế nào để thị trường phục vụ người nghèo hiệu quả; hỗ trợ các vùng chậm phát triển, và chặn đứng, xoá bỏ nạn tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân. Đây là cách đặt vấn đề tích cực để giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội. g) Đa hình thức phân phối thu nhập Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, thu nhập của cộng đồng dân cư được phân phối theo nhiều kênh và hình thức khác nhau. Trong đó, phân phối thu nhập theo hiệu quả kinh doanh và năng suất lao động là chính, các hình thức phân phối thu nhập theo vốn, tài sản, trí tuệ và phúc lợi xã hội cùng tồn tại và phát triển. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: "Chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội"(() Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG, Hà Nội 2011. tr.74. ). Lao động là nguồn gốc chính tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, tạo ra sự giàu có của quốc gia. Vì thế, để thực hiện công bằng, phải lấy phân phối theo hiệu quả kinh doanh và năng suất lao động làm hình thức phân phối chính. Người lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao phải có thu nhập cao hơn. Nhưng mặt khác, phải tạo mọi điều kiện và môi trường thuận lợi để mọi người đều có thể làm giàu chính đáng bằng lao động của chính mình. Vì vậy, mở rộng cơ hội phát triển và nâng cao năng lực lựa chọn cơ hội cho mọi người dân để họ từng bước sống khá giả, sau đó, giàu có cả về vật chất lẫn tinh thần là mục tiêu và là nét đặc trưng thuộc về bản chất của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay ở nước ta. Thu nhập theo vốn, tài sản và trí tuệ bỏ ra kinh doanh đã được luật pháp thừa nhận. Chỉ trên cơ sở đó mới khuyến khích nhiều người làm giàu chính đáng. Tăng số người giàu, giảm số người nghèo, không còn người đói, giảm dần độ chênh lệch giàu nghèo vừa là mục tiêu, vừa là nội dung trọng yếu của các chính sách phân phối và phân phối lại thu nhập của Nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN. h) Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Hai yếu tố quyết định cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường là nhà nước và thị trường. Do vậy, bàn về tính hiệu quả của nền kinh tế thị trường, mấu chốt là phải xác định rõ thực trạng của mối quan hệ này. Đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vấn đề lại càng là như vậy. Nếu không làm rõ được trong cơ chế vận hành của nền kinh tế, nhà nước làm gì, thị trường làm gì và bằng cách nào thì không thể có một nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả. Khác với nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới, Nhà nước ở nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có đủ bản lĩnh và khả năng tự đổi mới để giữ vững định hướng XHCN trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại. Sự khác biệt đó là điều kiện, tiền đề cho sự khác biệt về chất của mô hình kinh tế thị trường mà nước ta hướng tới so với các mô hình kinh tế thị trường khác. Để làm tròn sứ mệnh mà lịch sử và dân tộc Việt Nam giao phó, Đảng và Nhà nước phải tự đổi mới phương thức lãnh đạo, quản lý đất nước và xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, CNH, HĐH, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế dưới tác động của toàn cầu hoá. Trên đây là một số đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN. Các đặc trưng này vừa phản ánh tính phổ biến, vừa thể hiện những nét đặc thù trong mô hình phát triển mà Việt Nam lựa chọn. 3.2. Phương hướng và giải pháp chính nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam thời gian tới 3.2.1. Phương hướng Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quán triệt những phương hướng rõ ràng trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong những thập kỷ tới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ: “Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, điều cần thiết trước hết là nắm vững định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta”(() Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006, tr.25. ). Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 tái khẳng định: “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược. Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức… Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,…”(() Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 98 - 99. ). Để thực hiện được các định hướng trên, cần phải: “(1) Phát triển mạnh các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp...(2) Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường... (3) Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(() Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 35 -37. ). 3.2.2. Những giải pháp chính thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường Thứ nhất, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Xây dựng và phát triển đồng bộ hệ thống thị trường, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất; Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các loại thị trường. - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, không ngừng đổi mới cơ chế chính sách phù hợp với yêu cầu thực tiễn; Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. -Hoàn thiện cơ chế quản lý của nhà nước phù hợp với kinh tế thị trường; bảo đảm sự tương thích cơ chế quản lý nhà nước với cơ chế vận động khách quan của thị trường. Nhà nước trở thành chất xúc tác cho các chủ thể kinh tế vận hành hiệu quả và ổn định theo đúng quy luật thị trường. Các công cụ can thiệp nhà nước phải mang tính minh bạch, dễ tiên liệu, phù hợp với thông lệ quốc tế. - Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước; Phân định rõ quyền sở hữu của Nhà nước và quyền kinh doanh của doanh nghiệp, hoàn thiện cơ chế quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp. - Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, nhất là kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài;“Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế” (() Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 74. ); phát triển các loại hình sản xuất kinh doanh. “Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình" (() Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 74. ). Thứ hai, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất trong nền kinh tế - Nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế quốc dân nhằm cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia trong quá trình hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Để đạt mục tiêu quan trọng này cần phải đẩy mạnh CNH, HĐH, ứng dụng nhanh thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, đẩy mạnh phân công lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất lao động xã hội; Cải tạo, nâng cấp và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng như hệ thống giao thông vận tải, bến cảng, kho bãi, viễn thông, điện nước, v.v. - Đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt chú ý các nhà quản lý, doanh nhân, đội ngũ người lao động lành nghề và nâng cao trình độ tư duy kinh tế, kiến thức kinh doanh cho các chủ hộ gia đình, hộ tiểu chủ; - Quan tâm tới việc tái sản xuất sức lao động của lực lượng lao động để họ đủ sức lực và trình độ vận hành cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại của nền kinh tế quốc dân. Chế độ chính sách về tiền lương/tiền công, phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, v.v. cần được điều chỉnh kịp thời, sát với điều kiện biến đổi của thị trường. Thứ ba, Tận dụng tri thức và nguồn lực từ bên ngoài - Tiếp cận hệ thống tri thức nhân loại về nền kinh tế thị trường thông qua hợp tác giáo dục - đào tạo, trao đổi học thuật, nghiên cứu, hội thảo... - Học hỏi kinh nghiệm xây dựng nền kinh tế thị trường của các nước trong khu vực và trên thế giới thông qua tư vấn, tham quan, nghiên cứu mô hình... - Tận dụng cơ hội phát triển, lợi thế nước đi sau trong việc xây dựng mô hình phát triển thông qua hợp tác, liên doanh, chuyển giao... - Tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Phần 2 TOÀN CẦU HOÁ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm gần đây đã trở thành đề tài được đông đảo các nhà chính trị, các học giả, các nhà kinh doanh và dân chúng quan tâm đặc biệt. Có những ý kiến rất khác nhau khi đánh giá quá trình này. Tài liệu này muốn giới thiệu quá trình toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế về cả phương diện lý luận và thực tiễn, đồng thời phân tích những vấn đề liên quan đối với Việt Nam hiện nay. I. NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Các tiếp cận lý luận về quá trình toàn cầu hóa Thuật ngữ toàn cầu hoá (Globalization) đã xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1961, được đưa vào Từ điển tiếng Anh của Webster, nhưng mãi đến năm 1980s thuật ngữ này mới được sử dụng rộng rãi. Toàn cầu hóa là một quá trình đa phương diện, bao hàm nhiều nhân tố như kinh tế, chính trị, pháp luật, khoa học - công nghệ, văn hóa, xã hội. “Toàn cầu hóa” là một thuật ngữ đòi hỏi phải có cách tiếp cận liên ngành và đa chiều vì nó có liên quan đến tất cả các hiện tượng xã hội đương đại. Toàn cầu hóa được tiếp cận từ góc độ kinh tế học, xã hội học, công nghệ học, môi trường, văn hóa, v.v.. Đến nay đã có hàng trăm định nghĩa về toàn cầu hóa được đưa ra từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Nguyên nhân của sự khác nhau hoặc đối lập đó không chỉ do khác nhau về lợi ích, về lập trường quan điểm mà còn do khác nhau về cách tiếp cận vấn đề, về mục đích tìm hiểu toàn cầu hóa Đề tài cấp nhà nước KX08.01: Xu thế toàn cầu hóa trong hai thập kỷ đầu thể kỷ XXI. . Toàn cầu hóa là kết quả tất yếu từ sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Quan niệm được nhiều học giả tán thành nhất. Chúng là biểu hiện hệ quả của sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trong các nền kinh tế riêng biệt, từ đó quá trình này dẫn đến phá vỡ sự biệt lập của từng quốc gia, tạo ra mối quan hệ gắn kết, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên quy mô toàn cầu trong sự vận động phát triển. Kinh tế thị trường khẳng định được ưu thế của mình và phát tán ra nhiều quốc gia trên thế giới. Nó tạo ra động lực phát triển và mở rộng quan hệ giữa các quốc gia, trước hết là các quan hệ kinh tế, sau đó tới các quan hệ khác như chính trị, văn hóa, v.v. Hệ thống kinh tế thị trường càng phát triển theo hướng mở, không bị giới hạn bởi các đường biên giới và ranh giới dân tộc, chủng tộc và tôn giáo. Đó là môi trường thuận lợi tạo thuận lợi cho quá trình tự nhiên xích lại gần nhau của các cộng đồng dân cư các thể chế toàn thế giới. Toàn cầu hoá phản ánh một quá trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang trở nên ngày càng phụ thuộc lẫn nhauGrahane Thonpdion: Introduction, Sitmating Globalization, International Social Siences Journal, Unesco, 1999, N.160, P.139-152. . Tác động của các hành vi kinh tế toàn cầu dẫn tới hệ lụy của hệ thống chính trị thế giới, ngược lại chính trị lại có tác động to lớn hơn đối với kinh tế. Toàn cầu hóa ngày nay về bản chất chính là sự tăng trưởng của hoạt động kinh tế nói chung đã được vượt khỏi biên giới quốc gia và khu vực. Nói cách khác, toàn cầu hóa mang một nội dung chủ đạo là toàn cầu hóa kinh tế, phát triển kinh tế vừa là mục tiêu, vừa là động lực toàn cầu hóa. Đặc trưng phát triển kinh tế là một nhu cầu thực tế khách quan của nhân loại trong toàn cầu hóa hiện nay. Làn sóng khoa học công nghệ ngày càng trở nên phổ biến, trình độ khoa học công nghệ ngày cao, khả năng ứng dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực đời sống. Việc hợp tác khai thác, sử dụng công nghệ làm cho các nước phụ thuộc vào nhau nhiều hơn. Các làn sóng phát triển khoa học công nghệ là chất xúc tác làm cho quan hệ giữa các quốc gia xích lại gần nhau hơn. Thành tựu khoa học công nghệ dường như xóa nhòa dần biên giới địa lý của từng quốc gia, làm cho khoảng cách không gian trên thế giới càng co hẹp
File đính kèm:
- Chuyen de (6)- Kinh tế thị trường.doc