Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen

Quản lý an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen và sản

phẩm của sinh vật biến đổi gen ngày càng trở nên quan trọng và

cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh công nghệ sinh học hiện đại

ngày càng được ứng dụng rộng rãi với những sản phẩm thương

mại tại rất nhiều quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, sau khi

chính thức trở thành thành viên của Nghị định thư Cartagena

về an toàn sinh học năm 2004, Chính phủ Việt Nam đã và đang

triển khai nhiều hoạt động nhằm củng cố bộ máy quản lý và

hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về quản lý an toàn sinh

học; cụ thể, năm 2009, Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi

trường xây dựng “Nghị định của Chính phủ về an toàn sinh học

đối với sinh vật biến đổi gen, mẫu vật di truyền và sản phẩm

của sinh vật biến đổi gen”. Theo đó, các hoạt động nghiên cứu

khoa học, phát triển công nghệ, khảo nghiệm, sản xuất, kinh

doanh, nhập khẩu, xuất khẩu, vận chuyển, lưu giữ sinh vật biến

đổi gen, mẫu vật di truyền và sản phẩm của sinh vật biến đổi

gen đều thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định này.

pdf60 trang | Chia sẻ: andy_Khanh | Lượt xem: 1240 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn hãy click vào nút TẢi VỀ
hát 
tán gen từ cây trồng biến đổi gen là một vấn đề cần cân nhắc 
về ảnh hưởng lâu dài vì chúng sẽ phát triển qua một số thế hệ. 
Khung thời gian cần theo dõi sẽ tùy thuộc vào GMO, chu kỳ 
sống của chúng và loại tác động bất lợi đang xem xét. Bò biến 
đổi gen có vòng đời là nhiều năm có thể cần theo dõi lâu hơn so 
với chuột biến đổi gen có vòng đời ngắn hơn rất nhiều.
Các nguy cơ được xác định thông qua một số tiêu chí, trong 
đó có tiêu chí được quy định trong các quy định pháp luật và có 
tiêu chí xuất phát từ những lo ngại của các nhóm đối tượng liên 
quan. Các nguy cơ không dẫn đến tác động bất lợi hoặc khó có 
thể xảy ra sẽ không được quan tâm trong quy trình đánh giá rủi 
ro. Một số trường hợp, khi tác động bất lợi có thể không quan 
trọng thì có thể bỏ qua nguy cơ.
Việc chọn lựa nguy cơ cần được tiến hành toàn diện và nghiêm 
ngặt, phù hợp với bản chất của GMO và quy mô về không gian 
và thời gian của hoạt động giải phóng GMO dự kiến, tránh tập 
trung vào các sự kiện không thực tế. Quy trình cũng cần cân 
nhắc kỹ những lo ngại của các nhóm đối tượng về ảnh hưởng 
của GMO đối với sức khỏe con người và môi trường.
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen26
Hậu quả
Nếu nguy cơ gây ra tác động bất lợi hoặc sự cố, thì mức độ 
nghiêm trọng của hậu quả như thế nào? Những hậu quả của tác 
động bất lợi hoặc sự cố cần được kiểm tra ở các mức độ khác 
nhau. Ví dụ, tác hại đối với sức khỏe con người thường được 
cân nhắc ở mức cá thể trong khi tác hại đối với môi trường 
thường được cân nhắc ở mức quần thể, loài hoặc cộng đồng. 
Các hậu quả có các mức độ phổ biến và nghiêm trọng khác 
nhau. Ví dụ, nếu sự biến đổi gen dẫn đến tạo ra một protein có 
đặc tính gây dị ứng, một số người có thể không có phản ứng với 
protein này, một số có thể bị ảnh hưởng nhẹ, trong khi một số 
bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vì vậy, có nhiều mức hậu quả khác 
nhau đối với một tác động bất lợi, một số người nhạy cảm hơn 
với độc tố so với những người khác, sự phản ứng có thể từ ốm 
nhẹ đối với cá thể này đến ốm nặng đối với cá thể khác. Khi cân 
nhắc các hậu quả cần quan tâm đến các yếu tố như sự đa dạng 
và phổ biến về mức độ nghiêm trọng của hậu quả.
Tác động bất lợi được đánh giá thông qua các nhân tố 
chính như:
a) Độ nghiêm trọng của mỗi tác động bất lợi tiềm ẩn;
b) Chúng có gây ra sự thay đổi lớn? Mức độ thay đổi có 
nhanh (sự thay đổi lớn trong một khoảng thời gian ngắn)? 
Các ảnh hưởng có dài hạn? Sự thay đổi có thể chấp nhận 
được không?
c) Phạm vi không gian (địa phương, vùng, quốc gia, toàn 
cầu) trong đó tác động bất lợi tiềm ẩn lan rộng và ảnh 
hưởng đến các sinh vật khác;
d) Phạm vi thời gian của tác động bất lợi, đó là thời hạn 
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen 27
(độ dài là ngày, năm hay thập kỷ), tần suất và bản chất 
của tác động qua thời gian (chúng gián đoạn hay lặp đi 
lặp lại? Nếu lặp đi lặp lại, thì mức độ thường xuyên và 
tần suất như thế nào?);
e) Tác động bất lợi tích lũy;
f) Sự giảm ảnh hưởng - khi nào thì tác động bất lợi sẽ giảm bớt? 
Bảng 2 trình bày một số ví dụ về những mô tả liên quan đến 
quy mô của các tác động bất lợi đối với sức khỏe con người và 
môi trường. Những dẫn giải về hậu quả đối với sức khỏe con 
người tập trung vào tổn thương như là tác động bất lợi nhưng 
cũng có thể tập trung vào số lượng người bị ảnh hưởng hoặc 
quy mô không gian (địa phương, khu vực, quốc gia) của tác 
động bất lợi. Các hậu quả bất lợi đối với môi trường bao gồm 
rất nhiều ảnh hưởng và những mô tả này bao gồm một số vấn 
đề đã được liệt kê ở trên.
Bảng 2. Các hậu quả bất lợi đối với sức khỏe con người và 
môi trường
Các hậu quả
Rất nhỏ
Nhỏ hoặc không gây thương tổn, trừ một vài cá thể có thể cần 
sự trợ giúp y tế;
Nhỏ hoặc không tác động tới môi trường.
Nhỏ
Gây thương tổn nhẹ cho một số người và những người này có 
thể cần trợ giúp y tế;
Phá hủy các hệ sinh thái; hoặc có thể ở mức độ nhẹ, chỉ xảy ra 
ở một thời điểm và trong một khu vực nhất định (giới hạn về 
thời gian và không gian), và gây ảnh hưởng tới một số cá thể/ 
quần thể.
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen28
Các hậu quả
Trung 
bình
Gây thương tổn một số người và những người này cần sự trợ 
giúp y tế mức độ cao;
Phá hủy các hệ sinh thái, có ảnh hưởng lan rộng và khó có thể 
hạn chế mức độ nghiêm trọng.
Lớn
Gây thương tổn nặng cho một số người và những người này có 
thể cần nhập viện hoặc có thể bị tử vong;
Phá hủy toàn bộ hệ sinh thái, cộng đồng hoặc một số loài đang 
tồn tại, và không có khả năng giảm nhẹ.
Cần nhấn mạnh rằng, sự thay đổi là một phần vốn có của 
bất kỳ một hệ thống động phức tạp, trong đó có các hệ thống 
sinh học. Sự thay đổi có thể xảy ra khi không có mặt GMO và 
sự thay đổi có thể xảy ra là kết quả của GMO. Vì vậy, để đánh 
giá các hậu quả bất lợi phát sinh từ GMO cần tìm hiểu và nhận 
dạng rõ sự thay đổi cũng như cần cân nhắc xem sự thay đổi đó 
có phải là không mong muốn. Những sự thay đổi này tương đối 
đa dạng tùy thuộc vào môi trường. 
Khả năng xảy ra
Khả năng là xác suất xảy ra một điều gì đó. Đánh giá khả 
năng xảy ra tập trung vào câu hỏi: Chúng sẽ xảy ra? Cụ thể hơn, 
khả năng chúng sẽ xảy ra như thế nào? Đánh giá khả năng xảy 
ra cũng là một thành phần của đánh giá rủi ro. Khả năng có liên 
quan đến tần suất (số lượng các lần xuất hiện trong một đơn vị 
thời gian) và khả năng xuất hiện (từ 0 đến 1, trong đó 0 là tác 
động không thể có và 1 là một tác động nhất định).
Các yếu tố quan trọng để cân nhắc khả năng một nguy cơ 
dẫn đến một tác động bất lợi:
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen 29
a) Hoàn cảnh để xảy ra hay xuất hiện nguy cơ;
b) Hoàn cảnh để xuất hiện một tác động bất lợi;
c) Sự xuất hiện trên thực tế và sự nghiêm trọng của tác động 
bất lợi; 
d) Sự bền vững hoặc lan rộng của tác động bất lợi.
Các yếu tố góp phần vào khả năng xảy ra của một tác động 
bất lợi bao gồm:
a) Sự sống sót, khả năng tái sinh và tính bền vững của GMO;
b) Các hoàn cảnh giải phóng, bao gồm môi trường, các yếu 
tố sinh học, vô sinh và các sinh vật khác.
Tần suất hoặc khả năng xảy ra một sự kiện đầu tiên không 
nên cân nhắc đơn lẻ nếu một chuỗi sự kiện dẫn đến tác động bất 
lợi. Đánh giá khả năng xảy ra phức tạp hơn đối với các nguy cơ 
“xa” vì có thể có nhiều liên kết trong chuỗi các sự kiện nguyên 
nhân. Ví dụ, việc chuyển gen từ cây trồng biến đổi gen hoặc thực 
vật sang các vi sinh vật là mầm bệnh cần một số sự kiện xuất 
hiện trước khi nguy cơ sẽ xảy ra. Tuy nhiên, sự xuất hiện một sự 
kiện (ví dụ, chuyển gen) không có nghĩa là gây ra tác hại mà cần 
các sự kiện tiếp theo xảy ra như khả năng vi sinh vật biến đổi gen 
mới được tạo ra có khả năng sống sót, sinh sản và gây ra một số 
tác hại có thể nhận biết. Ngược lại, các nguy cơ “gần” với tác 
động bất lợi tiềm ẩn như một sản phẩm của gen là độc tố đối với 
các sinh vật không phải là sinh vật đích, có thể giúp ước lượng 
thô hơn về khả năng. Trong trường hợp các thử nghiệm đồng 
ruộng, thời gian giải phóng là cố định nhưng các ảnh hưởng bất 
lợi tiềm ẩn vượt ra khỏi giai đoạn này cũng phải được cân nhắc. 
Như trong bất kỳ quy trình dự đoán nào, sự chính xác đạt được 
cao nhất ở tương lai gần và giảm dần ở tương lai xa.
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen30
Bằng chứng
Chỉ những hồ sơ đăng ký xin cấp phép cho một hoạt động 
liên quan đến GMO có đủ thông tin mới được cơ quan quản lý 
xem xét. Khi không đủ thông tin, cơ quan quản lý có thể từ chối 
hồ sơ, yêu cầu bên nộp hồ sơ bổ sung thông tin. Nếu không thể 
tiến hành đánh giá, thì hồ sơ có thể bị dừng cho đến khi thông 
tin được cung cấp đầy đủ.
Các câu hỏi quan trọng liên quan đến bằng chứng là bao 
nhiêu thông tin là đủ và thông tin nào cần phải cung cấp. Cần 
phân biệt giữa dữ liệu cần để đánh giá rủi ro và thông tin cơ bản 
không liên quan trực tiếp đến ước lượng rủi ro. Việc thu thập dữ 
liệu, đơn giản chỉ là để có thông tin, trong khi những thông tin 
đó không phục vụ mục đích ước lượng rủi ro chỉ gây mất thời 
gian và không hiệu quả. 
Bằng chứng được sử dụng để đánh giá hồ sơ đăng ký có từ 
nhiều nguồn khác nhau. Các quy chế quản lý GMO thường quy 
định chi tiết thông tin bên nộp hồ sơ đăng ký cần phải cung cấp 
trong hồ sơ. Bằng chứng bao gồm các dữ liệu thực nghiệm từ 
các công bố khoa học liên quan đến hồ sơ, kinh nghiệm thực tế, 
các bài tổng quan, học thuyết, mô hình và quan sát. Bằng chứng 
cũng có thể là các đánh giá về GMO cùng loại hoặc tương tự 
trước đó của các cơ quan quản lý khác ở trong nước và quốc tế. 
Ở đây, việc thiết lập các mối quan hệ của cơ quan quản lý quốc 
gia với các cơ quan liên quan nhằm triển khai trao đổi thông tin 
là hết sức cần thiết. 
Các nguồn thông tin chất lượng khác bao gồm:
a) Ý kiến chuyên gia;
b) Thông tin về các nguy cơ và bất lợi tiềm ẩn thu thập được 
thông qua tư vấn cộng đồng; 
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen 31
Cơ quan quản lý tiếp nhận thông tin do bên nộp hồ sơ đăng 
ký cung cấp, tuân theo các tiêu chuẩn khoa học nghiêm ngặt, 
trong đó tập trung vào dữ liệu định lượng. Các nghiên cứu khoa 
học sẽ được đánh giá về mức độ phù hợp và chất lượng của các 
thí nghiệm thực nghiệm. Mọi khía cạnh liên quan được nhân 
viên có năng lực thích hợp của cơ quan quản lý đánh giá độc 
lập. Các tiêu chuẩn quốc tế phải được sử dụng cho các loại 
nghiên cứu cụ thể và dữ liệu được đánh giá trên cơ sở những 
tiêu chuẩn đó. Ví dụ, trong các đánh giá độc tố, dữ liệu thực 
nghiệm từ các nghiên cứu trên động vật được sử dụng để ngoại 
suy cho người và đánh giá rủi ro môi trường thường dựa trên 
các ảnh hưởng đối với các loài thử nghiệm được chấp nhận.
Các bằng chứng được đánh giá qua nguồn gốc (ví dụ, bài 
báo được thẩm định trong tạp chí quốc tế được công nhận sẽ có 
giá trị hơn nhận định không được xác định trên mạng internet 
của một cá nhân) và qua nội dung của chúng. Các nhận định 
không đủ bằng chứng có thể có ít trọng lượng hơn hoặc không 
đáng tin. Trong những trường hợp, khi có thể có bằng chứng 
mâu thuẫn về các tác động bất lợi, ví dụ một số thông tin cho 
thấy tác động bất lợi và một số lại cho thấy không có ảnh 
hưởng, thì chúng sẽ được cân nhắc trong kết luận cuối cùng.
Các bằng chứng có thể được đánh giá dựa trên mức độ được 
công nhận và giá trị của thông tin đưa ra. Về giá trị, chúng có 
thể được đánh giá bởi một số nghiên cứu, một số bằng chứng 
yếu hơn có thể được xem có giá trị ngang như một bằng chứng 
mạnh đơn lẻ, hoặc thông qua độ sâu của các nghiên cứu, nghiên 
cứu chi tiết có thể có giá trị hơn so với một nghiên cứu không 
sâu. Độ mạnh của bằng chứng có thể được cân nhắc thông qua 
mối quan hệ với vấn đề quan tâm. Nếu bằng chứng trực tiếp 
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen32
liên quan đến vấn đề chúng sẽ mạnh hơn so với bằng chứng chỉ 
liên quan gián tiếp đến vấn đề đó. Vì vậy, nếu các nghiên cứu 
về cỏ dại của một loài cụ thể, chúng sẽ mạnh hơn so với thông 
tin về cỏ dại của một loài liên quan. 
 Hình 4. Các bằng chứng và độ mạnh trong công nhận
 Các nghiên cứu có giá trị được tiến hành theo các 
phương pháp quốc tế đạt các tiêu chuẩn xác định 
 Dữ liệu thực nghiệm được thẩm định về GMO 
trong môi trường quốc gia
 Dữ liệu thực nghiệm được thẩm định về GMO 
trong các môi trường khác
 Dữ liệu thực nghiệm được thẩm định về sinh vật 
bố mẹ, các tính trạng biến đổi hoặc sinh thái
 Công bố được thẩm định – các báo cáo, mô hình, 
học thuyết
 Công bố được thẩm định – các báo cáo đơn lẻ, 
mô hình, học thuyết
 Dữ liệu nghiên cứu
 Các nguyên lý sinh học 
 Ý kiến của chuyên gia về GMO, sinh vật bố mẹ, 
các tính trạng biến đổi, sinh thái, các báo cáo 
khoa học khác, các báo cáo Chính phủ 
 Không có thông tin 
 Các nhận định không có căn cứ
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen 33
Khi không có bằng chứng trực tiếp thì bằng chứng gián tiếp 
sẽ được cân nhắc, đánh giá thích hợp. Nếu dữ liệu không có 
hoặc không hoàn thiện sẽ được cân nhắc khi xem xét hồ sơ. 
Nếu cơ quan quản lý cân nhắc thấy việc thiếu dữ liệu dẫn đến 
sự không chắc chắn về mức độ của một rủi ro có thể quản lý thì 
có thể yêu cầu bổ sung dữ liệu, thông tin về nghiên cứu khảo 
nghiệm hạn chế. Cơ quan quản lý sẽ không cấp phép nếu xác 
định rằng rủi ro không thể quản lý được.
Ước lượng rủi ro
Rủi ro, về mặt thuật ngữ, được đo bằng sự kết hợp khả năng 
một nguy cơ sẽ gây ra tác động bất lợi và mức độ nghiêm trọng 
(hậu quả) của tác động bất lợi đó. Để giảm tính mơ hồ của thuật 
ngữ sử dụng trong các đánh giá rủi ro, cơ quan quản lý thường 
áp dụng một bộ các chỉ thị nhằm đánh giá khả năng xảy ra, 
đánh giá hậu quả và ước lượng rủi ro, trong đó bao trùm mọi 
lĩnh vực của các hồ sơ đăng ký cấp phép có thể có. Ví dụ, hậu 
quả của một rủi ro liên quan đến sức khỏe con người sẽ rất khác 
so với hậu quả của rủi ro đối với môi trường (xem Bảng 3).
Bảng 3. Ma trận ước lượng rủi ro
Uớc lượng rủi ro
Đánh 
giá 
khả 
năng
Khả năng cao Thấp Trung bình Cao Cao
Có khả năng Thấp Thấp Trung bình Cao
ít có khả năng Không đáng kể Thấp Trung bình Trung bình
Không có khả năng Không đáng kể Không đáng kể Thấp Trung bình
Rất nhỏ Nhỏ Trung bình Cao
Đánh giá hậu quả
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen34
Đánh giá khả năng
Khả năng cao Dự đoán xảy ra trong hầu hết các trường hợp
Có khả năng Có thể xảy ra trong nhiều trường hợp
ít có khả năng Có thể xảy ra trong một số trường hợp
Không có khả năng Có thể xảy ra trong rất ít trường hợp
Đánh giá hậu quả
Rất nhỏ Tác động bất lợi rất nhỏ hoặc không có
Nhỏ Có một số tác động bất lợi
Trung bình Tác động bất lợi là đáng kể
Cao Tác động bất lợi là nghiêm trọng
Ước lượng rủi ro
Không đáng kể
Rủi ro không đáng kể và hiện tại không cần các 
hành động hỗ trợ để giảm thiểu
Thấp
Rủi ro là ở mức độ thấp, nhưng có thể cần các 
hành động hỗ trợ để giảm thiểu
Trung bình
Rủi ro đáng lo ngại, cần các hành động để giảm 
thiểu và chứng minh tính hiệu quả
Cao
Rủi ro không thể chấp nhận được trừ khi có các 
hành động khả thi và hiệu quả cao
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen 35
Các ma trận rủi ro thường không đối xứng bởi vì không phải 
tất cả rủi ro có cùng mối quan hệ giữa khả năng và hậu quả. 
Ngoài ra, một số nhân tố khác có thể ảnh hưởng đến mối quan 
hệ như một nhóm quần thể mẫn cảm, một loạt phản ứng hoặc 
loại tần suất của tác động.
Các chỉ thị về khả năng xảy ra, hậu quả và ước lượng rủi 
ro đưa ra ở trên có thể được tham khảo cho mọi hồ sơ đăng ký 
cấp phép. Tuy nhiên, chúng phải được cân nhắc trong bối cảnh 
của hoạt động dự kiến tiến hành. Ví dụ, việc đưa một gen biểu 
hiện một chất trị liệu vào trong giống khoai tây có thể coi là 
rủi ro thấp hơn so với việc đưa gen đó vào một giống thực vật 
lai chéo như đậu trắng, bởi vì giảm khả năng phát tán và tính 
bền vững của gen đưa vào. Cần chú ý, sự không chắc chắn về 
khả năng xảy ra và hậu quả sẽ ảnh hưởng đến ước lượng rủi ro. 
Ma trận ước lượng rủi ro cho biết mối quan hệ giữa hậu quả và 
khả năng xảy ra của các nguy cơ cụ thể. Ma trận rủi ro có thể 
sử dụng làm công cụ để đưa ra ước lượng rủi ro.
2.3 Các vấn đề khác liên quan đến đánh giá rủi ro
So sánh tương đương
Các hồ sơ đăng ký cấp phép giải phóng có chủ đích GMO 
vào môi trường thường được yêu cầu đánh giá rủi ro theo từng 
trường hợp cụ thể và chọn lựa các đối tượng thích hợp để so 
sánh. Các rủi ro gây ra bởi một GMO cụ thể thường được so 
sánh với các rủi ro gây ra bởi sinh vật bố mẹ chưa biến đổi gen. 
Lập luận phía sau đánh giá so sánh này là những sinh vật bố mẹ 
chưa biến đổi gen có lịch sử sử dụng an toàn đối với người tiêu 
dùng nói chung hoặc động vật và môi trường. Cây trồng này sẽ 
có bản chất di truyền tương tự so với cây trồng biến đổi gen trừ 
tính trạng được biến đổi. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, 
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen36
lai tạo giống truyền thống cũng có thể tạo ra những sự thay 
đổi về bản chất di truyền của các giống. Khi một giống truyền 
thống là giống được trồng đại trà thì sẽ dễ dàng so sánh hơn. 
Ví dụ, đối với cây cải dầu mang tính kháng thuốc diệt cỏ được 
tạo ra bằng các phương pháp truyền thống và đang được trồng 
rộng rãi ở một quốc gia cần được cân nhắc khi đánh giá các hồ 
sơ đăng ký giải phóng thương mại các giống cây trồng biến đổi 
gen kháng thuốc diệt cỏ ở quốc gia đó. 
Môi trường nhận cũng có thể thay đổi qua thời gian và sự 
thay đổi này cũng cần được cân nhắc khi đánh giá rủi ro. Ví 
dụ, những thay đổi về tập quán canh tác nông nghiệp liên quan 
đến gieo trồng hoặc sử dụng hóa chất có thể tác động đến môi 
trường ở đó GMO được gieo trồng. Những nhân tố này rất quan 
trọng trong đánh giá hậu quả của ước lượng rủi ro. 
Đánh giá rủi ro định tính và đánh giá rủi ro định lượng
Mục đích của đánh giá rủi ro là áp dụng cách tiếp cận logic, hệ 
thống, có thể dự đoán và có thể lặp lại vào ước lượng rủi ro. Điều 
này vừa bao gồm đánh giá định tính và đánh giá định lượng. 
Trong đó, đánh giá rủi ro định lượng là xác định khả năng 
một nguy cơ sẽ xuất hiện và các hậu quả nếu nó xảy ra. Đây 
là mối quan hệ trực tiếp giữa hai nội dung. Kiểu phân tích này 
thích hợp với các tình huống trong sản xuất hóa chất và công 
nghiệp với lịch sử lâu dài trong đó thông tin được thu thập dưới 
dạng các loại và mức độ của các rủi ro. Các rủi ro tiềm ẩn được 
đánh giá chính xác nhờ một lượng lớn dữ liệu và hiểu biết sâu 
sắc từng quy trình riêng lẻ.
Các đánh giá rủi ro môi trường thường là định tính bởi vì 
sự phức tạp của chúng, số lượng đầu vào và sự cần thiết phải 
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen 37
xử lý với nhiều chỉ thị có thể tạo ra nhiều tác động. Điều này 
không có nghĩa là các đánh giá định tính không sử dụng các dữ 
liệu định lượng, mà ngược lại, các đánh giá định tính sử dụng 
thông tin định lượng. 
Các đánh giá định lượng sử dụng một số giá trị số có thể 
thu thập từ:
a) Dữ liệu thực nghiệm;
b) Thông qua ngoại suy từ các nghiên cứu thực nghiệm về 
các hệ thống liên quan;
c) Dữ liệu lịch sử; hoặc
d) Phỏng đoán từ các mô hình đã sử dụng để mô tả các hệ 
thống hoặc tương tác phức tạp.
Các đánh giá định tính sử dụng các mô tả liên quan đến khả 
năng xảy ra, các tác động bất lợi và có thể kết hợp các dữ liệu từ 
một số nguồn. Trong đó, một số dữ liệu có thể là định lượng.
Việc sử dụng cách tiếp cận định tính hay định lượng tùy 
thuộc vào lượng, loại và chất lượng của dữ liệu; sự phức tạp 
của rủi ro đang xem xét; mức độ chi tiết của yêu cầu để ra quyết 
định. 
Đối với GMO, các đánh giá định tính, trong hầu hết các 
trường hợp, là cách thích hợp nhất, bởi vì:
a) Các loại sinh vật và các loại gen đưa vào rất đa dạng và 
thường mới;
b) Các tác động bất lợi tiềm ẩn đối với sức khỏe con người 
và môi trường rất đa dạng;
c) Các tác động đối với môi trường phát sinh trong các hệ 
thống rất phức tạp và còn nhiều vấn đề chưa được hiểu rõ;
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen38
d) Các tác động bất lợi có thể xuất hiện về lâu dài và khó 
định lượng.
Vì vậy, các đánh giá rủi ro định tính đối với GMO là cơ 
chế khả thi nhất để đánh giá rủi ro trong phần lớn các trường 
hợp khi không có đủ dữ liệu để áp dụng các phương pháp định 
lượng. Các mô hình có thể được sử dụng để cung cấp thông 
tin cho quy trình phân tích định lượng nhưng không thể đưa ra 
được các câu trả lời chính xác. Các đánh giá định tính cũng dễ 
tiếp cận hơn cho trao đổi thông tin rủi ro. 
Sự không chắc chắn
ít nhất 5 loại không chắc chắn có thể áp dụng cho phân tích 
rủi ro GMO. Bao gồm: 
Tri thức – không chắc chắn về kiến thức. Các ví dụ về sự 
không chắc chắn của tri thức bao gồm kiến thức không hoàn 
thiện, số lượng mẫu hạn chế, lỗi đánh giá (hệ thống hoặc ngẫu 
nhiên), lỗi mẫu, số liệu mơ hồ hoặc gây tranh luận, số liệu 
không thực tế, sử dụng dữ liệu thay thế. Đánh giá rủi ro các 
hoạt động liên quan đến GMO dựa trên bằng chứng, chủ yếu 
sử dụng thông tin từ nghiên cứu khoa học. Sự không chắc chắn 
về kiến thức là thành phần chính của sự không chắc c

File đính kèm:

  • pdfPhan tich rui ro cua sinh vat bien doi gen.pdf
Bài giảng liên quan