SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho học sinh Lớp 2
+ Nội dung cơ bản của kế hoạch dạy học phải thể hiện rõ hoạt động của thầy, hoạt động của trò, hoạt động trọng tâm của bài; của mỗi hoạt động; nêu cách tổ chức của thầy, dự kiến câu trả lời của học sinh và kết luận của giáo viên; đảm bảo kiến thức trọng tâm của bài, logic khoa học, lựa chọn phương pháp giảng dạy thể hiện sự hệ thống việc làm của thầy - trò, hình thức tổ chức phù hợp với môn học,
lớp học với đối tượng học sinh.
+ Khi soạn những bài khó, các GV trong nhóm tổ chức trao đổi, thống nhất chung các vấn đề liên quan đến giờ lên lớp.
+ Trong dạy học các môn học nói chung và các phân môn Tiếng Việt nói riêng GV cần chú trọng giải nghĩa từ, hướng dẫn HS cảm thụ nội dung văn bản.
- Thường xuyên chấm, chữa bài và tư vấn, định hướng cách khắc phục và phát triển cho HS, kịp thời động viên khi HS có tiến bộ.
- Thực hiện quy định về đánh giá xếp loại học sinh theo TT22 của Bộ GD- ĐT; căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng để đánh giá và tiến hành đánh giá đúng
thực lực của học sinh ở từng môn học, từng phẩm chất, từng năng lực.
- Chú trọng hơn trong phong trào Rèn chữ giữ vở cho HS vì thông qua việc việc rèn luyện chữ viết còn rèn cho HS một số phẩm chất cần thiết như tính kiên trì, kỉ luật, cẩn thận, gọn gàng,
- Phối hợp với Đội quan tâm dạy KNS và các HĐNG cho HS các em.
- Phối hợp chặt chẽ trong nhóm, tổ chuyên môn, chuyên môn nhà trường để có sự hỗ trợ thêm về các PPDH.
g/gh; ng/ngh nhưng GV lớp 2 lại hướng dẫn theo cách viết hiện hành. Với những khó khăn trên nên chất lượng dạy học lớp 2 có phần hạn chế so với các khối lớp khác. Trong năm học 2018 - 2019, GV lớp 2 đã được tham dự Tập huấn chuyên đề giảng dạy lớp 2 do Phòng GD & ĐT thành phố tổ chức. Qua chuyên đề chúng tôi học hỏi được nhiều điều thiết thực, bổ ích để vận dụng vào giảng dạy. II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC LỚP 2 Trước thực trạng đó, tôi mạnh dạn đề ra một số biện pháp để nâng cao chất lượng lớp 2 như sau: - Trước hết bản thân mỗi GV đứng lớp phải có niềm say mê, có tình yêu thương đối với học trò, kiên trì, không ngại khó, luôn cố gắng kiểm soát tính nóng vội, tạo tâm lí thoải mái cho HS. - GV cần nắm vững từng đối tượng học sinh về nhận thức môn học, về năng lực, phẩm chất, về sở trường, về cá tính của học sinh để có cơ sở xây dựng kế hoạch, nhiệm vụ trọng tâm của năm học, đăng kí chỉ tiêu phấn đấu của lớp, xây dựng kế hoạch giảng dạy phù hợp. + GV lớp 2 cần nắm vững PPDH TV1 CN để đảm bảo tuyến tính trong dạy TV lớp 2. + Thiết kế bài dạy phải đảm bảo chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài học dành cho các đối tượng học sinh trong lớp. Tăng cường sử dụng trang bị về thiết bị, đồ dùng dạy học vì đồ dùng dạy học rất quan trọng giúp học sinh nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, đến thực tiễn. Ngoài đồ dùng trực quan sinh động mà giáo viên đã chuẩn bị thì còn có hình ảnh trực quan sinh động hơn đó chính là người giáo viên: cần có giọng nói nhẹ nhàng, cử chỉ mềm mại, thái độ ân cần sẽ thu hút sự chú ý học tập của học sinh cao hơn, tăng thêm sự hứng thú học tập của học sinh. + Nội dung cơ bản của kế hoạch dạy học phải thể hiện rõ hoạt động của thầy, hoạt động của trò, hoạt động trọng tâm của bài; của mỗi hoạt động; nêu cách tổ chức của thầy, dự kiến câu trả lời của học sinh và kết luận của giáo viên; đảm bảo kiến thức trọng tâm của bài, logic khoa học, lựa chọn phương pháp giảng dạy thể hiện sự hệ thống việc làm của thầy - trò, hình thức tổ chức phù hợp với môn học, lớp học với đối tượng học sinh. + Khi soạn những bài khó, các GV trong nhóm tổ chức trao đổi, thống nhất chung các vấn đề liên quan đến giờ lên lớp. + Trong dạy học các môn học nói chung và các phân môn Tiếng Việt nói riêng GV cần chú trọng giải nghĩa từ, hướng dẫn HS cảm thụ nội dung văn bản. - Thường xuyên chấm, chữa bài và tư vấn, định hướng cách khắc phục và phát triển cho HS, kịp thời động viên khi HS có tiến bộ. - Thực hiện quy định về đánh giá xếp loại học sinh theo TT22 của Bộ GD- ĐT; căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng để đánh giá và tiến hành đánh giá đúng thực lực của học sinh ở từng môn học, từng phẩm chất, từng năng lực. - Chú trọng hơn trong phong trào Rèn chữ giữ vở cho HS vì thông qua việc việc rèn luyện chữ viết còn rèn cho HS một số phẩm chất cần thiết như tính kiên trì, kỉ luật, cẩn thận, gọn gàng, - Phối hợp với Đội quan tâm dạy KNS và các HĐNG cho HS các em. - Phối hợp chặt chẽ trong nhóm, tổ chuyên môn, chuyên môn nhà trường để có sự hỗ trợ thêm về các PPDH. III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM - Dạy học là công việc lâu dài, vất vả. Do vậy GV ngoài nhiệm vụ truyền đạt kiến thức phải tìm cách thu hút sự tập trung chú ý của HS trong giờ học làm cho giờ học có hiệu quả, phải yêu thương uốn nắn các em từ những việc làm nhỏ nhất. - Quan tâm đồng đều HS trong lớp. Trong mỗi tiết dạy cần nắm bắt tâm lí, tính tình của mỗi học sinh để GV có thể tìm ra thủ thuật phù hợp với từng đối tượng HS. Tạo mọi điều kiện cho các em phát triển điểm mạnh chính là tạo hứng thú cho các em học tốt . Để thực hiện được các điều trên, đòi hỏi giáo viên lớp 2 thực sự tâm huyết và nổ lực cao độ. GV cần đầu tư nhiều về thời gian, công sức cũng như trí tuệ thì mới đáp ứng được mục tiêu đề ra. Rất mong sự quan tâm, tạo điều kiện của nhà trường và Quý vị đại biểu để GV lớp 2 hoàn thành tốt nhiệm vụ. IV. KIẾN NGHỊ - Đối với nhà trường: Cuối năm học thì nhà trường đã tổ chức Bàn giao chất lượng lớp dưới cho lớp trên nghiêm túc. Tuy nhiên, tôi xin kiến nghị nhà trường tổ chức Bàn giao chất lượng lớp 1 trực tiếp cho GV lớp 2 kế cận để GV lớp 2 sẵn sàng tâm thế đón nhận HS một cách chủ động. - Đối với cấp trên: Xem xét chương trình tổng thể đảm bảo tính hệ thống để đón đầu cho thay sách giáo khoa năm học 2019 - 2020. Trên đây là một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học lớp 2 mà tôi đưa ra và cố gắng thực hiện để góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Rất mong sự góp ý của các đồng nghiệp để bài tham luận được hoàn chỉnh hơn. Xin trân trọng cảm ơn quý vị đại biểu và các đồng chí về dự hội nghị đã lắng nghe. Chúc Hội nghị thành công tốt đẹp! Hà Huy Tập, ngày 19 tháng 9 năm 2018 Người viết : Nguyễn Thị Kim Anh Chất lượng GD toàn diện cho HS luôn là mục tiêu hàng đầu trong công tác GD& ĐT. Trong năm học 2018 - 2019, Sở GD& ĐT cũng như Phòng GD& ĐT Thành phố tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục cho HS lớp 2. Lớp 2 là lớp học đầu tiên chuyển giao từ chương trình Tiếng Việt 1 công nghệ giáo dục sang chương trình hiện hành nên trong thực tế giảng dạy có một số khó khăn nhất định cần được tháo gỡ. Vì thế mà trong năm học này đã có các chuyên đề cho GV dạy lớp 2 do Sở và phòng tổ chức. Thời gian gần đây, có một sự ồn ào lan tỏa rộng rãi đủ các tầng lớp trên mạng xã hội về cách đánh vần hay là sử dụng các mô hình hình tam giác, hình vuông, hình tròn trong Tiếng Việt 1 theo chương trình công nghệ giáo dục. Là những người giáo viên tiểu học trực tiếp giảng dạy, chúng tôi nhìn nhận và hiểu rõ vấn đề đó hơn ai hết. "Cách đánh vần được cho là lạ" trong Tiếng Việt nhưng sau khi học xong lớp 1, các em học sinh đã đạt được mục tiêu là đọc thông, viết thạo. Nhưng khi tiếp cận và học chương trình lớp 2, HS có một bước ngoặt chuyển đổi trong cách học môn Tiếng Việt. Đó là, từ quan điểm dạy học “chân không về nghĩa” trong Tiếng Việt 1 công nghệ nên học sinh lớp 1 học tiếng, âm, vần, đọc câu ứng dụng không bắt buộc HS phải hiểu nghĩa và cũng không bắt buộc giáo viên phải giải thích nghĩa mà chỉ chú trọng dạy các em viết chữ, đọc và viết các từ, tiếng. Vì vậy, học sinh có thể đọc thành thạo tiếng, đọc văn bản nhưng không hiểu nghĩa của từ, nội dung của câu và đoạn văn. Do vậy khi lên lớp 2, các em HS gặp khó khăn khi học các phân môn Tiếng Việt nhất là phân môn LTVC, TLV mới mẻ mà môn Tiếng Việt lại là nền cho việc học các môn học khác. Bên cạnh đó, đặc điểm tâm sinh lí của HS lớp 2 là chóng nhớ nhanh quên, mức độ tập trung hạn chế, thao tác chậm, với lại sỉ số HS trên đầu lớp đông do vậy mà chất lượng có phần hạn chế so với các khối lớp khác. Với thực trạng đó, tôi mạnh dạn đề ra một số biện pháp để nâng cao chất lượng lớp 2 như sau: - Trước hết bản thân mỗi GV đứng lớp phải có niềm say mê, có tình yêu thương đối với học trò, kiên trì, không ngại khó, luôn cố gắng kiểm soát tính nóng vội, tạo tâm lí thoải mái cho HS. - GV cần nắm vững từng đối tượng học sinh về nhận thức môn học, về năng lực, phẩm chất, về sở trường, về cá tính của học sinh để có cơ sở xây dựng kế hoạch, nhiệm vụ trọng tâm của năm học, đăng kí chỉ tiêu phấn đấu của lớp, xây dựng kế hoạch giảng dạy phù hợp. + Thiết kế bài dạy phải đảm bảo chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài học dành cho các đối tượng học sinh trong lớp. Tăng cường sử dụng trang bị về thiết bị, đồ dùng dạy học vì đồ dùng dạy học rất quan trọng trong việc dạy học ở tiểu học giúp học sinh nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, đến thực tiễn. Ngoài đồ dùng trực quan sinh động mà giáo viên đã chuẩn bị thì còn hình ảnh trực quan sinh động hơn là người giáo viên: cần có giọng nói nhẹ nhàng, cử chỉ mềm mại, thái độ ân cần sẽ thu hút sự chú ý học tập của học sinh cao hơn, tăng thêm sự hứng thú học tập của học sinh. + Nội dung cơ bản của kế hoạch dạy học phải thể hiện rõ hoạt động của thầy, hoạt động của trò, hoạt động trọng tâm của bài; của mỗi hoạt động; nêu cách tổ chức của thầy, dự kiến câu trả lời của học sinh và kết luận của giáo viên; đảm bảo kiến thức trọng tâm của bài, logic khoa học, lựa chọn phương pháp giảng dạy (thể hiện sự hệ thống việc làm của thầy - trò, hình thức tổ chức phù hợp với môn học, lớp học với đối tượng học sinh). + Khi soạn những bài khó, các GV trong nhóm chức trao đổi, thống nhất chung các vấn đề liên quan đến giờ lên lớp. + Trong dạy học các môn học nói chung và các phân môn Tiếng Việt nói riêng GV cần chú trọng giải nghĩa từ, hướng dẫn HS cảm thụ nội dung văn bản. - Thường xuyên chấm, chữa bài và tư vấn, định hướng cách khắc phục và phát triển cho HS. - Thực hiện quy định về đánh giá xếp loại học sinh theo TT22 của Bộ GD- ĐT; căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng để đánh giá và tiến hành đánh giá đúng thực lực của học sinh ở từng môn học, từng phẩm chất, từng năng lực. - Chú trọng hơn trong phong trào Rèn chữ giữ vở cho HS vì thông qua việc việc rèn luyện chữ viết, rèn kĩ năng trình bày bài còn rèn cho HS một số phẩm chất cần thiết như tính kiên trì, kĩ luật, cẩn thận, gọn gàng, Phát động phong trào thi đua "Dạy tốt - Học tốt", tiến hành bàn giao số lượng, chất lượng (Phối hợp với Ban chấp hành công đoàn phát động phong trào “Kỷ cương -Tình thương - Trách nhiệm” qua đó vận động giáo viên chấp hành nghiêm túc quy chế chuyên môn của nhà trường. 2.2. Biện pháp chỉ đạo việc thực hiện chương trình và kế hoạch giảng dạy của cấp quản lí giáo dục: Việc tổ chức thực hiện chương trình và xây dựng kế hoạch giảng dạy của giáo viên là yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng giáo dục trong nhà trường nên Hiệu trưởng phải dựa trên cơ sở như: căn cứ các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, các chỉ thị của ngành, của địa phương, căn cứ vào đặc điểm tình hình của đơn vị để xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình sao cho vừa đảm bảo chất lượngn vừa đảm bảo hoàn thành chương trình theo tinh thần chỉ đạo của ngành. Dự kiến những vấn đề có thể nảy sinh, biện pháp khắc phục, biên chế nội dung chương trình cho cả năm học và cho từng thời điểm, lập thời khóa biểu cho các khối lớp. Tập trung nghiên cứu kĩ các văn bản chỉ đạo về chuyên môn, nghiên cứu về nội dung, chương trình sách giáo khoa, căn cứ đặc điểm tâm lí của trẻ. Hướng dẫn tổ chuyên môn, giáo viên phối hợp với kế hoạch của nhà trường xây dựng kế hoạch giảng dạy, kế hoạch hoạt động phù hợp với đối tượng học sinh. Thực hiện chương trình một cách vừa và đủ đảm bảo tham gia các cuộc giao lưu mà cấp trên tổ chức, như tham gia Olympic Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh tiểu học cấp huyện, cấp tỉnh đối với học sinh lớp 5. Chỉ đạo tổ chuyên môn tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo Điều lệ trường tiểu học (Đảm bảo sinh hoạt 2 lần/tháng); nội dung sinh hoạt đa dạng, phong phú: trao đổi về phương pháp dạy học, trao đổi về kết quả nghiên cứu nội dung, chương trình sách giáo khoa, trao đổi về phương pháp xác định mục tiêu của bài học - xác định mảng kiến thức trọng tâm của một bài, một môn, trao đổi về biện pháp giáo dục học sinh, hướng dẫn học sinh trong học tập cũng như trong rèn luyện. 2.3. Biện pháp chỉ đạo , chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên và việc lựa chọn đồ dùng dạy học của giáo viên. Thiết kế bài dạy và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên là việc làm quan trọng, thực hiện quy chế chuyên môn trong trường tiểu học; là khâu mà bất kì giáo viên trực tiếp giảng dạy nào cũng phải có vì trong quá trình thiết kế bài dạy, chuẩn bị giờ lên lớp giúp giáo viên có sự chuẩn bị, sự nghiên cứu về nội dung, tuy nó chưa phải là dự kiến được hết những tình huống có thể xảy ra trong quá trình giảng dạy để có biện pháp xử lí kịp thời đúng đắn. Thiết kế bài dạy được xem là công cụ để thực hiện nhiệm vụ của giáo viên, thể hiện sự sáng tạo của giáo viên và cũng là một trong những việc làm góp phần quyết định chất lượng giáo dục trong nhà trường. Do đó, cần tập trung chỉ đạo việc thiết kế bài dạy và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên cụ thể như sau: Triển khai các văn bản, các yêu cầu cơ bản về việc thiết kế bài dạy, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào soạn giảng đến tổ, khối, giáo viên. Kế hoạch bài giảng của giáo viên phải thể hiện: Quy định thời gian kí duyệt kế hoạch giảng dạy của giáo viên trước khi lên lớp thực hiện tiết dạy. Thực hiện chương trình đảm bảo đúng quy chế chuyên môn, quy định của ngành; duy trì và thực hiện tốt Biện pháp 3: Biện pháp chỉ đạo về kiểm tra- đánh giá kết quả việc học tập của học sinh Kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng là thể hiện thành tích của giáo viên trong thời gian thực hiện nhiệm vụ và sự chỉ đạo của nhà trường. Do đó, đánh giá với tinh thần không nghiêm túc, thái độ chưa khách quan, khuynh hướng nhận xét, đánh giá một cách hình thức, thiếu tinh thần trách nhiệm thì sẽ không khắc phục được những hạn chế mắc phải trong học sinh dẫn tới không chỉ hạn chế trong chất lượng giáo dục mà dẫn tới tiêu cực trong giáo dục, đánh giá không đúng, thiếu trung thực sẽ dẫn tới tình trạng nguy hiểm như học sinh ngồi nhầm lớp, ảnh hưởng đến uy tín của ngành giáo dục Thấy rõ được tầm quan trọng của vấn đề này, Hiệu trưởng có những biện pháp chỉ đạo như sau: Triển khai, phổ biến các văn bản quy định về kiểm tra đánh giá và ghi điểm; lập kế hoạch kiểm tra đánh giá thường xuyên, đánh giá theo thời điểm và phổ biến các quy định về nền nếp kiểm tra sâu rộng trong tập thể cán bộ, giáo viên của nhà trường. Tổ chuyên môn tiến hành nghiên cứu những quy định kiểm tra – đánh giá nhận xét học sinh, lập kế hoạch kiểm tra, đánh giá, nhận xét học sinh thường xuyên và theo từng thời điểm. Nội dung kiểm tra học sinh theo thời điểm được đưa ra tập thể, tổ trao đổi cùng thống nhất nội dung ôn tập và ra đề kiểm tra. Ngoài đánh giá về năng lực, sự rèn luyện của học sinh còn đánh giá về các phong trào như: "Giữ vở sạch, viết chữ đẹp", Tổ chức Biện pháp 4: Biện pháp chỉ đạo hoạt động học tập của học sinh 4.1. Xây dựng nề nếp, kỉ cương trong hoạt động học tập của học sinh: Trong nhà trường, việc xây dựng nền nếp, kỉ cương có ý nghĩa vô cùng to lớn, nó không chỉ là điều kiện để thực hiện tốt việc dạy và học trên lớp mà còn giáo dục học sinh ý thức, chấp hành tổ chức kỉ luật góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách ở học sinh. Do đó cần: Xây dựng nội quy học sinh, triển khai sâu rộng trong giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh ngay từ đầu năm học. Đặc biệt người làm thầy phải chú ý lắng nghe ý kiến của người học để nghiên cứu và có biện pháp phát huy tài năng của học sinh và kịp thời uốn nắn giúp học sinh rèn luyện, phát triển đúng đắn hơn. Giáo viên tìm hiểu tâm lí của học sinh, tìm hiểu về khả năng và nhu cầu của từng em để có biện pháp giáo dục đạo đức, có biện pháp giúp đỡ sự rèn luyện của học sinh. Tổ chức thi đua theo tổ, cá nhân học sinh về học tập, về lao động vệ sinh, về thực hiện nền nếp, thực hiện phong trào giúp bạn vượt khó, tổ chức bình chọn học sinh gương mẫu, học sinh tích cực trong học tập, vào cuối tuần, theo dõi thường xuyên và liên tục uốn nắn các hành vi của học sinh. Phối hợp với Đoàn thanh niên - Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, phát động phong trào thi đua, động viên, khuyến khích học sinh chấp hành tốt nội quy, thường xuyên đánh giá xếp loại thi đua hàng tuần để kịp thời tuyên dương tập thể cá nhân có thành tích tốt, giúp cá nhân học sinh kịp thời điều chỉnh việc làm không phù hợp, khắc phục hạn chế của bản thân dần dần hoàn thiện nhân cách ở học sinh. 4.2. Biện pháp chỉ đạo nhằm giáo dục động cơ học tập của học sinh. Hoạt động học tập là hoạt động cơ bản của học sinh, hoạt động này có hiệu quả cao hay không còn tùy thuộc vào tinh thần, thái độ học tập của các em. Vì vậy, là người làm nhiệm vụ trồng người cần phải có biện pháp giáo dục cho học sinh tính tự giác trong học tập, thông qua các tiết dạy giáo viên thường xuyên động viên khích lệ sự vươn lên trong học sinh, giáo dục và ươm mầm ước mơ, khơi dậy hoài bão ở mỗi em. Tổ chức các kỳ giao lưu, Câu lạc bộ,.. tạo cơ hội cho học sinh thể hiện tài năng của mình, tạo cơ hội cho học sinh thể hiện niềm đam mê trong học tập. Giáo dục học sinh thông qua các tiết giáo dục tập thể đầu tuần, giáo dục ngoài giờ lên lớp, các buổi sinh hoạt Đội, sinh hoạt Sao,... nhân dịp kỉ niệm các ngày lễ lớn trong năm. Giáo dục trong tiết sinh hoạt cuối tuần, trong tiết dạy, qua bài học, qua việc làm tốt của bạn, qua kết quả học tập của bạn, của bản thân học sinh, Thông qua quá trình thực hiện tiết dạy của giáo trên lớp nên tạo ra cơ hội cho học sinh phát biểu ý kiến, học sinh tích cực xây dựng bài, giáo dục cho học sinh hiểu học tập vừa là quyền được học lại vừa là nhiệm vụ của các em. Tạo ra nhu cầu hứng thú về sự hiểu biết dần dần hình thành nhu cầu học tập với tinh thần tự giác, thái độ đúng đắn. 4.3. Biện pháp chỉ đạo tổ chức phối hợp các hoạt động học tập chính khóa và ngoại khóa: Để giúp học sinh hoàn thiện và phát triển hơn về năng lực và phẩm chất thì cần có sự phối hợp chặt chẽ với Ban đại diện cha mẹ học sinh, của chính quyền địa phương chung tay tuyên truyền, vận động để cha mẹ học sinh tạo điều kiện tốt cho con mình học tập ở trường cũng như học tập ở nhà: nên tạo cho các em thời gian biểu hợp lí, thường xuyên nhắc nhở, động viên con học tập, kiểm tra sách vở của con một cách thường xuyên, Cùng với giáo viên chủ nhiệm giáo dục con mình phát triển toàn diện, giáo dục đạo đức, giáo dục tính trung thực trong mỗi lĩnh vực, biết đọc sách, tự ôn lại bài trên lớp và xem trước bài học sau. 4.4. Biện pháp chỉ đạo về việc bồi dưỡng học sinh năng khiếu và giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành kiến thức, kĩ năng các môn học. Căn cứ hồ sơ tuyển sinh, biên bản bàn giao chất lượng lớp dưới lên lớp trên và kết quả khảo sát đầu năm, Hiệu trưởng chỉ đạo tổ chuyên môn, giáo viên chịu trách nhiệm có kế hoạch và biện pháp bồi dưỡng học sinh năng khiếu và giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành kiến thức, kĩ năng môn học. Giáo viên chủ nhiệm phân đối tượng học sinh, tìm hiểu nguyên nhân học sinh nhận thức, tính toán chậm để có biện pháp giảng dạy và giáo dục phù hợp, nâng dần chất lượng giáo dục bằng nhiều hình thức: Xây dựng kế hoạch dạy học phù hợp, cải tiến phương pháp dạy học theo đối tượng học sinh, quan tâm và kịp thời giúp đỡ học sinh nhận thức, tính toán chậm bằng cách giao việc phù hợp, nâng dần, động viên, tạo cơ hội cho học sinh hòa nhập với tập thể, cũng như quan tâm, giúp đỡ học sinh nhận thức, tính toán chậm, công tác bồi dưỡng học sinh năng khiếu cũng là một trong những công tác mũi nhọn của nhà trường. Giáo viên không nên xem thường mà không chuẩn bị riêng cho những học sinh này bài tập, câu hỏi khó thì có nguy cơ gây ra sự nhàm chán đối với các em vì với các bài tập ở sách giáo khoa các em đều làm được. Thời gian còn lại các em chỉ ngồi chờ nếu cứ lập đi lập lại tình trạng này thì sẽ gây ức chế hưng phấn học tập của học sinh, kiềm hãm sự phát triển tư duy của trẻ. Chính vì vậy, trong quá trình dạy học giáo viên phải hết sức chú ý và giao việc phù hợp cho học sinh mới phát triển tài năng của tuổi thơ. Biện pháp 5: Biện pháp phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội Gia đình - nhà trường và xã hội là mối quan hệ không thể thiếu trong nhà trường phổ thông đặt biệt là trong trường tiểu học. Nhà trường phối hợp ban đại diện cha mẹ học sinh, các tổ chức và cá nhân nhằm thống nhất quan điểm, nội dung, phương pháp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Nhằm huy động mọi lực lượng của cộng đồng tham gia chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh. Là cánh tay đắc lực hỗ trợ về vật chất lẫn tinh thần cho tập thể cán bộ, giáo viên tạo điều kiện trang bị đồ dùng dạy học, là nguồn động viên lớn đối với ý thức học tập và rèn luyện của học sinh. * Về phía GV và chương trình sách giáo khoa: - GV đôi lúc nóng tính, thiếu tính mềm dẻo, thiếu khiếu hài hước. Đôi lúc nội dung bài dạy dài, nên ảnh hưởng đến thời gian quan tâm đồng bộ đến từng học sinh trong lớp. - Nội dung chương trình sách giáo khoa một số bài kiến thức quá tải nên để truyền tải hết nội dung của một bài học theo PPCT thì không thể đi sâu kĩ cũng như không có nhiều thời gian nhắc lại kiến thức cũ HS mà đã quên. II/ Một số giải pháp nhằm nâng cao chất
File đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_cho_hoc_sinh_lop_2.doc