SKKN Một số kinh nghiệm tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh THCS qua môn GDCD

Không chỉ tổ chức các hoạt động trải nghiệm bên ngoài nhà trường và ngoài tỉnh, chúng tôi cũng chú trọng các hoạt động trải nghiệm ngay tại nhà trường và trong địa phương. Tổ chức chương trình Những nhà kinh tế trẻ vào dịp kỉ niệm 30 năm thành lập trường. Gian hàng kinh doanh của các em đã thu hút hàng trăm lượt khách thăm quan và mua hàng. Sau hai ngày kinh doanh với các mặt hàng tự làm và chế biến các em đã thu được tổng số tiền gần 10 triệu đồng. Qua hoạt động này các em được trải nghiệm bước đầu trong môi trường kinh doanh, nhiều em năng động , sáng tạo và thể hiện được năng lực quản lý kinh tế.

docx48 trang | Chia sẻ: Minh Văn | Ngày: 11/03/2024 | Lượt xem: 91 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu SKKN Một số kinh nghiệm tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh THCS qua môn GDCD, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn hãy click vào nút TẢi VỀ
c sinh.
Ở đó, khảo sát điền dã, điều tra xã hội học, phỏng vấn, trao đổi với phụ huynh, học sinh là những cách làm thông dụng và đạt được hiệu quả cao. Sau khi đã xác định được tiêu chuẩn lựa chọn chủ đề thì bước tiếp theo giáo viên sẽ phải xác định được chủ đề cần thực hiện và xây dựng nó. Công việc này sẽ được tiến hành qua các bước cơ bản sau:
Tìm thiểu, thu thập thông tin có liên quan bao gồm cả thông tin thực địa về chủ đề và việc tổ chức hoạt động trải nghiệm;
Phỏng vấn điều tra học sinh xem học sinh quan tâm đến những vấn đề gì và tại sao lại quan tâm đến những vấn đề đó;
Tham chiếu nguồn lực vật chất, năng lực giáo viên, đặc điểm tâm sinh lý học sinh và điều kiện của nhà trường với thông tin thu thập được để dự kiến được nội dung hoạt động; Xác định chủ đề (đặt tên cho chủ đề);
Viết nội dung và kế hoạch thực hiện chương trình hoạt động trải nghiệm (mục tiêu, nội dung, phương pháp tiến hành, cách thức đánh giá, chuẩn bị của giáo viên, học sinh, phụ huynh, các nguồn lực hỗ trợ bên ngoài ví dụ như sự hỗ trợ của chuyên gia, nhân viên ở thực địa, phụ huynh học sinh);
Thảo luận với đồng nghiệp, chuyên gia để chỉnh sửa chương trình; Đến thực địa để quan sát, thí nghiệm, dự kiến các hoạt động đã soạn ra và dự đoán các tình huống bất thường có thể phát sinh để bổ sung và chuẩn bị phương án xử lý;
Hoàn thiện chủ đề và kế hoạch thực hiện chủ đề (viết thành văn bản hoàn chỉnh).
Điều cần đặc biệt lưu ý là khi tiến hành thiết kế các chủ đề, kế hoạch tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh, giáo viên cần chú ý cân nhắc sao cho nội dung và phương pháp, quy trình thực hiện phù hợp với thể chất, sức khỏe, tâm lý của học sinh cũng như tình hình thực tế của trường học, địa phương.
Giáo viên trong khi thiết kế chủ đề và lập kế hoạch tổ chức hoạt động trải nghiệm cũng cần suy nghĩ tới và cố gắng đưa vào một cách linh hoạt, thích hợp những hoạt động như:
Tìm kiếm, điều tra thông tin và tái cơ cấu thông tin, biểu đạt thông tin dưới nhiều hình thức khác nhau, quan sát, ghi chép, phỏng vấn, điền dã-tham quan, vẽ-tổ chức triển lãm, làm sách, báo, tập san, áp phích, diễn kịch, viết thư, bản kiến nghị, kể -thuyết minh cho người khác nghe
Vận dụng làm sao học sinh vừa hứng thú vừa hiểu và vận dụng được vào thực tế cuộc sống, mỗi giáo viên cần linh hoạt trong các tiết dạy tham khảo các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng tùy theo đối tượng và điều kiện dạy học cho phù hợp.
Hoạt động TNST là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động khác nhau của nhà trường, cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình.
Khái niệm này khẳng định vai trò định hướng, chỉ đạo, hướng dẫn của nhà giáo dục; thầy cô giáo, cha mẹ học sinh, người phụ trách... Giáo viên  không tổ chức, không phân công học sinh một cách trực tiếp mà chỉ hướng dẫn, hỗ trợ, giám sát cho tập thể hoặc cá nhân học sinh tham gia trực tiếp hoặc ở vai trò tổ chức hoạt động, giúp học sinh chủ động, tích cực trong các hoạt động; phạm vi các chủ đề hay nội dung hoạt động và kết quả đầu ra là năng lực thực tiễn, phẩm chất và năng lực sáng tạo đa dạng, khác nhau của các em.
Có thể kể ra một số hình thức hoạt động TNST như :
-  Hình thức có tính khám phá (thực địa, thực tế, tham quan, cắm trại)
-  Hình thức có tính triển khai (dự án và nghiên cứu khoa học, hội thảo, câu lạc bộ)
- Hình thức có tính trình diễn (diễn đàn, giao lưu, sân khấu hóa)
-  Hình thức có tính cống hiến, tuân thủ (thực hành lao động việc nhà, việc trường, hoạt động xã hội - tình nguyện).
 Hoạt động TNST hướng đến những phẩm chất và năng lực chung cho học sinh  ngoài ra hoạt động TNST còn có ưu thế trong việc thúc đẩy hình thành ở người học các năng lực đặc thù như :
- Năng lực hoạt động và tổ chức hoạt động;
- Năng lực tổ chức và quản lý cuộc sống;
- Năng lực tự nhận thức và tích cực hóa bản thân;
- Năng lực định hướng nghề nghiệp;
- Năng lực khám phá và sáng tạo;
Thực tế, trong đề án đối mới chương trình giáo dục của Bộ giáo dục đưa ra có 2 loại hoạt động giáo dục chính là: Dạy học các môn và trải nghiệm sáng tạo. Điều đó cũng phần nào khẳng định tầm quan trọng của hoạt động trải nghiệm sáng tạo . Hoạt động này giúp cho học sinh có nhiều cơ hội trải nghiệm để vận dụng những kiến thức học được vào thực tiễn từ đó hình thành năng lực thực tiễn cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của bản thân.
Quả thực , thật khó dạy hoặc khó có thể mô tả cho người khác về mùi hoa hồng là mùi như thế nào, thay vì nghe, người học được ngửi, được trải nghiệm với mùi hoa, người học sẽ có kinh nghiệm phân biệt về mùi hoa hồng với các mùi khác; để có được khả năng hát hay, vẽ đẹp, sự tinh tế trong giao tiếp... thì không thể thiếu được sự trải nghiệm của mỗi cá nhân.  Bởi thế trong quá trình dạy học và làm công tác chủ nhiệm tôi đã luôn ý thức được tầm quan trọng của hoạt động TNST và luôn cố gắng tổ chức hoạt động này cho các em học sinh trong điều kiện có thể .
Trong 3 năm học gần đây, đối với bộ môn Ngữ văn, tôi đã tổ chức hoạt động TNST dưới hình thức sân khấu hóa, chuyển thể tác phẩm văn học thành tiểu phẩm kịch ngắn hoặc phim ngắn. Sau khi triển khai ở một số lớp tôi dạy và thấy các em hưởng ứng rất nhiệt tình, có hiệu quả giáo dục cao, thì năm học vừa qua Tổ Ngữ Văn CD của chúng tôi đã triển khai  rộng hơn tới học sinh tất cả các lớp trong trường. Các đồng chí giáo viên Văn sẽ trực tiếp là các cố vấn, cùng các em xây dựng kế hoạch, triển khai, theo dõi, đôn đốc  việc thực hiện các dự án phim đạt hiệu quả cao nhất, tiết kiệm và an toàn nhất. Đặc biệt dự án này của tổ chúng tôi đã nhận được sự ủng bộ của BGH và Ban chuyên môn cả về vật chất lẫn tinh thần. Ban giám hiệu đã quyết định hỗ trợ mỗi lớp 300.000 đồng cho một dự án phim. Và đậy thực sự là sự động viên khích lệ rất lớn cho các em học sinh.  cho  đến nay, số lượng các tác phẩm được chuyển thể để trình diễn và trình chiếu của các khóa đã lên đến hơn 35 sản phẩm bao gồm cả tiểu phẩm kịch và phim ngắn.
Chúng tôi nhận thấy, hoạt động này không chỉ giúp các em đến gần hơn với tác phẩm văn học mà còn giúp các em có được những kĩ năng, năng lực quan trọng khác:  thông qua cách làm clip đã biết lồng âm thanh, hình ảnh, phối cảnh, phối hình, tạo thoại, Các em biết lên kế hoạch cho một hoạt động, chia sẻ và hợp tác với nhau trong công việc và thực tế HĐTNST này giúp các em gần nhau hơn, hiểu nhau hơn, gắn bó với nhau hơn. Nó trở thành 1 kỉ niệm đẹp cho những tháng ngày học sinh của các em. Đặc biệt ở HĐ TN này ,cách làm sáng tạo của học sinh nhiều khi khiến chúng ta ngạc nhiên vì khi giao việc cho các em, chúng ta cũng không nghĩ các em làm được như vậy. Thế nhưng, thực tế học sinh đã làm được điều vượt hơn cả mong đợi của giáo viên. Và tôi nghĩ việc nhen lên ngọn lửa sáng tạo cho học trò là điều mà mỗi người giáo viên chúng ta sẽ luôn ấp ủ, thực hiện
Đối với lớp chủ nhiệm, tôi chọn hoạt động có tính chất khám phá thực tế. Tổ chức cho các em học sinh tham gia Ngày hội tư vấn tuyển sinh của các trường Đại học  và thăm quan trường Đại học Bách khoa.. Trong quá trình xây dựng kế hoạch, tôi đã chủ động có công văn liên lạc với trường ĐHBKHN. và BGH nhà trường, phòngcông tác chính trị và học sinh sinh viên tạo điều kiện và giúp đỡ nhiệt tình. Các em được thăm quan phòng truyền thống của trường ĐHBK, tìm hiểu về các chuyên ngành đào tạo  của nhà trường, thăm quan thư viện, phòng nghiên cứu hạt nhân Chuyến đi đã thực sự có ý nghĩa đối với học sinh, giúp các em bước đầu có được những định hướng cho sự lựa chọn tổ hợp thi THPT, chọn nghề trong tương lai.
Tôi cũng đã  Tổ chức học sinh thăm quan di tích lịch sử khu tưởng niệm liệt sĩ Rú Nài. Học sinh nắm chắc hơn kiến thức lịch sử, đồng thời, kích thích được các em ham tham quan, học hỏi, tò mò, muốn mở rộng tầm hiểu biết lịch sử quê hương, của dân tộc mình. 
Không chỉ tổ chức các hoạt động trải nghiệm bên ngoài nhà trường và ngoài tỉnh, chúng tôi cũng chú trọng các hoạt động trải nghiệm ngay tại nhà trường và trong địa phương. Tổ chức chương trình Những nhà kinh tế  trẻ vào dịp kỉ niệm 30 năm thành lập trường. Gian hàng kinh doanh của các em đã thu hút hàng trăm lượt khách thăm quan và mua hàng. Sau hai ngày kinh doanh với các mặt hàng tự làm và chế biến các em đã thu được tổng số tiền gần 10 triệu đồng. Qua hoạt động này các em được trải nghiệm bước đầu trong môi trường kinh doanh, nhiều em năng động , sáng tạo và thể hiện được năng lực quản lý kinh tế. 
Từ thực tế chương trình giáo dục trong nhà trường THPT , từ thực tế đã trải qua trong năm học 2017- 2018 tôi xin mạnh dạn nêu lên một số kinh nghiệm để tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh trở nên có hiệu quả hơn nữa :
Một là : Xác định nhu cầu tổ chức hoạt động trải nghiệm, chọn hình thức nào cho phù hợp với nhu cầu, điều kiện của học sinh, nhà trường địa phương. Không nhất thiết cứ phải đi xa mới là trải nghiệm mà có nhiều hình thức cho ta lựa chọn .
 -  Hình thức có tính khám phá (thực địa, thực tế, tham quan, cắm trại)
 -  Hình thức có tính triển khai (dự án và nghiên cứu khoa học, hội thảo, câu lạc bộ)
- Hình thức có tính trình diễn (diễn đàn, giao lưu, sân khấu hóa)
-  Hình thức có tính cống hiến, tuân thủ (thực hành lao động việc nhà, việc trường, hoạt động xã hội - tình nguyện).
Hai là xác định  hình thức của hoạt động . Có thể một hoạt động nhưng có nhiều hình thức khác nhau được thực hiện đan xen hoặc trong dó có một hình thức nào đó là chủ đạo, còn hình thức khác là phụ trợ.
Ví dụ: “Thảo luận về việc phát huy truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo”. Hình thức thảo luận là chủ đạo, có thể xen kẽ hình thức văn nghệ, trò chơi hoặc đố vui.
Trong “Diễn đàn tuổi trẻ với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”, nên chọn hình thức báo cáo, trình bày, thuyết trình về vấn đề gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc làm chính, kết hợp với thi đàn, hát dân ca, trò chơi dân gian hoặc gặp gỡ, giao lưu với các nghệ nhân, nghệ sĩ, nhà nghiên cứu để tăng tính đa dạng, tính hấp dẫn cho diễn đàn.
Ba là : Huy động các nguồn lực : nhân lực – vật lực – Tài liệu .Tìm kiếm sự ủng hộ của BGH  và đặc biệt các em học sinh, các bậc phụ huynh, các thầy cô giáo bộ môn tại lớp mình. 
Bốn  là : Cần xây dựng kế hoạch chi tiết, có sự phê duyệt và chỉ đạo của BGH sớm trước 1 tháng.  Có sự liên hệ chặt chẽ, kế hoạch làm việc cụ thể với các đơn vị tổ chức liên quan. Công văn phối hợp với các đơn vị phối hợp trong hoạt động trải nghiệm .TRước 1 tuần phải có sự, kiểm tra , khớp nối chương trình chi tiết cụ thể: về thời gian, cách thức tổ chức hoạt động, phương tiện đi lại, tránh những tình huống bị động , không có trong kế hoạch khi HĐTN diễn ra ở ngoài nhà trường.(VD ĐHBK..)
Năm  là : Có kế hoạch đảm bảo an ninh, an toàn chi tiết cho hoạt độngTNST. Phân công nhóm học sinh tự quản. Phối hợp chặt chẽ với các Bác trong ban Đại diện hội cha mẹ học sinh cùng tham gia tổ chức và quản lý trong một số hoạt động trải nghiệm của học sinh.
 Trải nghiệm sáng tạo gồm nhiều hình thức khác nhau như: Hoạt động câu lạc bộ, hoạt động tình nguyện, tổ chức trò chơi, tham quan dã ngoại, sân khấu hóa, hoạt động nhân đạo.
Bản chất của hoạt động này là vận dụng nội dung môn học, các kiến thức để thực hành, vận dụng, giải quyết các vấn đề khác nhau trong cuộc sống. Học sinh được chủ động tham gia, trải nghiệm, sáng tạo những vấn đề lí thuyết để tạo ra các sản phẩm. Có thể nói trải nghiệm là cầu nối hữu hiệu giữa lí thuyết được giảng dạy và thực tiễn cuộc sống.
 Muốn tổ chức hiệu quả các câu lạc bộ trải nghiệm sáng tạo, mỗi giáo viên cần quan tâm tới một số vấn đề sau:
1. Mỗi Câu lạc bộ cần có tôn chỉ, mục đích, những nguyên tắc nhất định về: Tinh thần, thời gian, địa điểm, sự công bằng, sự cống hiến sáng tạo, tôn trọng, bình đẳng.
2. Tìm ra các ý tưởng tốt để xây dựng chủ đề, xác định mục tiêu, phương thức hoạt động, giao nhiệm vụ cụ thể, coi trọng sản phẩm của học sinh sau một chủ đề.
Chủ đề phải xuất phát từ mối quan tâm, hứng thú của học sinh, phải có mối liên hệ mật thiết hoặc xuất phát từ chính cuộc sống, trải nghiệm của học sinh; Chủ đề phải phù hợp với trình độ nhận thức, tâm lý lứa tuổi, sức khỏe của học sinh; Chủ đề phải có tính hợp lý trong mối quan hệ với mùa và sự sắp xếp chương trình của nhà trường.
3. Giáo viên cần thắp lên ngọn lửa đam mê để rồi cháy hết mình thắp sáng đường đi cho học trò. Bởi các hoạt động trải nghiệm sáng tạo đòi hỏi chính chúng ta cũng phải suy tư, trăn trở thay vì chỉ quan tâm đến các tiết lên lớp.
4. Luôn động viên, khích lệ, tạo cho học sinh sự chủ động, tự tin khi trải nghiệm sáng tạo bởi học sinh là người được tham gia trực tiếp vào các hoạt động đó nhằm thích ứng với bối cảnh nhà trường.
5. Sau mỗi hoạt động, coi trọng sự đánh giá của chính học sinh, học sinh biết bảo vệ, lí giải thành quả mà mình làm được, tạo cơ hội để học sinh đánh giá chéo lẫn “Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giúp các em học sinh hiểu sâu sắc, toàn diện hơn các bài học trên lớp, đáp ứng được mục tiêu giáo dục toàn diện, tiệm cận mục tiêu của UNESCO: “Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống và học để tự khẳng định mình”nhau..
Cụ thể sẽ có 4 nhóm nội dung hoạt động trải nghiệm (gồm nhóm nội dung hoạt động phát triển cá nhân; nhóm hoạt động lao động, nhóm hoạt động xã hội và phục vụ cộng đồng; nhóm hoạt động giáo dục hướng nghiệp) nhằm thực hiện 3 mục tiêu cơ bản của hoạt động trải nghiệm (năng lực thích ứng với cuộc sống; năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động; năng lực định hướng nghề nghiệp). Trong khi thực hiện 3 mục tiêu năng lực này thì hoạt động trải nghiệm sáng tạo phải thực hiện luôn tất cả các mục tiêu về phẩm chất và năng lực của chương trình, tức là phẩm chất và năng lực cốt lõi.
4 nhóm nội dung này sẽ được triển khai thực hiện thông qua 4 loại hình hoạt động trải nghiệm trong nhà trường. Những loại hình này chúng ta sẽ khá quen thuộc bởi trong chương trình hiện hành cũng có. (thứ nhất là sinh hoạt dưới cờ, thứ 2 là sinh hoạt lớp, thứ 3 là hoạt động giáo dục theo chủ đề và thứ 4 là hoạt động những câu lạc bộ).
Vậy với các loại hình hoạt động chúng ta sẽ chủ yếu sử dụng những hình thức và phương pháp trải nghiệm nào? Chúng tôi sẽ đưa ra 4 nhóm tổ chức hoạt động (nhóm hình thức tổ chức hoạt động).
Thứ nhất là những hình thức nhóm mang tính cống hiến (gồm các hoạt động tình nguyện, nhân đạo, vì cộng đồng,).
Thứ hai là hoạt động có tính khám phá như những chuyến đi thực địa, tham quan, dã ngoại,
Thứ ba là hoạt động mang tính thể nghiệm, trẻ được trải nghiệm và thể nghiệm mình luôn qua các hoạt động giao lưu, đóng kịch, sân khấu hóa,
Thứ tư là những hoạt động có tính nghiên cứu và phân hóa, như những dự án, hoạt động nghiên cứu khoa học rồi các hoạt động câu lạc bộ có tính định hướng có tính phân hóa,
Như vậy, mỗi một hình thức hoạt động sẽ đạt được mục tiêu riêng. Ngay trong tên gọi, để giúp cho các giáo viên có thể rõ hơn từng hoạt động thì chúng tôi đã đặt tên gọi mang tính bản chất nhất cho từng nhóm.
5. Một số phương pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho hoạc sinh phổ thông
HĐ TNST coi trọng các hoạt động thực tiễn mang tính tự chủ của HS, về cơ bản là hoạt động mang tính tập thể trên tinh thần tự chủ cá nhân, với sự nỗ lực giáo dục giúp phát triển sáng tạo và cá tính riêng của mỗi cá nhân trong tập thể. Đây là những HĐGD được tổ chức gắn liền với kinh nghiệm, cuộc sống để HS trải nghiệm và sáng tạo. Điều đó đòi hỏi các hình thức và phương pháp tổ chức HĐ TNST phải đa dạng, linh hoạt, HS tự hoạt động, trải nghiệm là chính.
Ở đây có 4 phương pháp chính, đó là:
5.1. Phương pháp giải quyết vấn đề (GQVĐ)
GQVĐ là một phương pháp giáo dục nhằm phát triển năng lực tư duy, sáng tạo, GQVĐ của HS. Các em được đặt trong tình huống có vấn đề, thông qua việc GQVĐ giúp HS lĩnh hội tri thức, KN và phương pháp.
Trong tổ chức HĐ TNST, phương pháp GQVĐ thường được vận dụng khi HS phân tích, xem xét và đề xuất những giải pháp trước một hiện tượng, sự việc nảy sinh trong quá trình hoạt động.
Phương pháp GQVĐ có ý nghĩa quan trọng, phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS, giúp các em có cách nhìn toàn diện hơn trước các hiện tượng, sự việc nảy sinh trong hoạt động, cuộc sống hàng ngày. Để phương pháp này thành công thì vấn đề đưa ra phải sát với mục tiêu hoạt động, kích thích HS tích cực tìm tòi cách giải quyết. Đối với tập thể lớp, khi GQVĐ GV phải coi trọng nguyên tắc tôn trọng, bình đẳng, tránh gây ra căng thẳng không có lợi khi giáo dục HS.
 Phương pháp trên được tiến hành theo các bước cụ thể như sau:
Bước 1: Nhận biết vấn đề
Trong bước này GV cần phân tích tình huống đặt ra giúp HS nhận biết được vấn đề để đạt yêu cầu, mục đích đặt ra. Do đó, vấn đề ở đây cần được trình bày rõ ràng, dễ hiểu đối với HS.
Bước 2: Tìm phương án giải quyết
Để tìm ra các phương án GQVĐ, HS cần so sánh, liên hệ với cách GQVĐ tương tự hay kinh nghiệm đã có cũng như tìm phương án giải quyết mới. Các phương án giải quyết đã tìm ra cần được sắp xếp, hệ thống hóa để xử lí ở giai đoạn tiếp theo. Khi có khó khăn hoặc không tìm được phương án giải quyết thì cần quay trở lại việc nhận biết vấn đề để kiểm tra lại và hiểu vấn đề.
Bước 3: Quyết định phương án giải quyết
GV cần quyết định phương án GQVĐ, khi tìm được phải phân tích, so sánh, đánh giá xem có thực hiện được việc GQVĐ hay không. Nếu có nhiều phương án giải quyết thì cần so sánh để xác định phương án tối ưu. Nếu các phương án đã đề xuất mà không giải quyết được vấn đề thì tìm kiếm phương án giải quyết khác. Khi quyết định được phương án thích hợp là đã kết thúc việc GQVĐ.
5.2. Phương pháp sắm vai
Sắm vai là phương pháp giáo dục giúp HS thực hành cách ứng xử, bày tỏ thái độ trong những tình huống giả định hoặc trên cơ sở óc tưởng tượng và ý nghĩ sáng tạo của các em.Sắm vai thường không có kịch bản cho trước mà HS tự xây dựng trong quá trình hoạt động. Đây là phương pháp giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào cách ứng xử cụ thể mà các em quan sát được. Việc "diễn" không phải là phần quan trọng nhất của phương pháp này mà là xử lí tình huống khi diễn và thảo luận sau phần diễn đó.
Mục đích của phương pháp trên không phải chỉ ra cái cần làm mà bắt đầu cho một cuộc thảo luận. Để bắt đầu cho một cuộc thảo luận thú vị người sắm vai nên làm một cái gì đó sai, hoặc phải thực hiện nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Nếu người sắm vai làm đúng mọi chuyện thì chẳng có gì để thảo luận.
Sắm vai có ý nghĩa rất lớn trong việc hình thành và phát triển các KN giao tiếp cho HS. Thông qua sắm vai, HS được rèn luyện, thực hành những KN ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn, tạo điều kiện phát triển óc sáng tạo của các em, khích lệ thay đổi thái độ và hành vi theo hướng tích cực trước một vấn đề hay đối tượng nào đó.
Về mặt tâm lý học, thông qua các hành vi, cá nhân nhận thức và giải quyết tốt hơn vấn đề của bản thân, vai trò lĩnh hội được trong quá trình sắm vai cho phép HS thích ứng với cuộc sống tốt hơn. Trong trò chơi cũng như trong cuộc sống, các em mong muốn có được một vai yêu thích, khi sắm một vai HS bước ra từ chính bản thân mình. Điều này trở thành phương tiện để thể hiện niềm vui, nỗi buồn, mối quan tâm, băn khoăn, mong muốn được chia sẻ, sự do dự, ngập ngừng,... của chính các em. Thông qua các vai được sắm trong trò chơi, HS thể hiện các khía cạnh khác nhau trong tính cách như: sự ưa thích, tình cảm, sự hiểu biết về nhân vật mà các em đang sắm vai đó và những người bạn đang chơi cùng với hành động của chúng là điều đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa nhiều mặt đối với HS.
Phương pháp sắm vai được tiến hành theo các bước nhất định bao gồm:
- Nêu tình huống sắm vai (phù hợp với chủ đề hoạt động; phải là tình huống mở; phù hợp với trình độ HS).
- Cử nhóm chuẩn bị vai diễn (có thể chuẩn bị trước khi tiến hành họat động): yêu cầu nhóm sắm vai xây dựng kịch bản thể hiện tình huống sao cho sinh động, hấp dẫn, mang tính sân khấu nhưng không đưa ra lời giải hay cách giải quyết tình huống. Kết thúc sắm vai là một kết cục mở để 

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_kinh_nghiem_to_chuc_hoat_dong_trai_nghiem_sang_t.docx