SKKN Nâng cao chất lượng dạy-học Lịch sử Lớp 5 bằng cách sử dụng bản đồ tư duy - Năm học 2016-2017 - Nguyễn Thị Lan
5.2 Phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu.
Những phương pháp này chủ yếu dùng vào việc điều tra, khảo sát và xử lí các kết quả thu nhận được trong quá trình thực nghiệm. Đây là những phương pháp giúp tôi có điều kiện nhìn nhận được những vấn đề được nghiên cứu, có sự so sánh và đối chiếu lẫn nhau (cụ thể là lớp thực nghiệm và lớp đối chứng). Từ đó có thể rút ra những kết luận hợp lí, vừa có cơ sở lí luận, vừa có cơ sở thực tiễn. Tuy những con số đưa ra có thể chưa đạt đến độ chính xác tuyệt đối nhưng với những số liệu ấy, người đọc sẽ có phần tin cậy hơn về tính khả thi của vấn đề đưa ra trong đề tài.
5.3 Phương pháp khảo sát thực tế.
Sau khi nghiên cứu những vấn đề lí thuyết , chúng tôi tiến hành khảo sát thực tế. chúng tôi dùng phương pháp này để khảo sát về thực trạng sử dụng BĐTD trong dạy học Lịch sử lớp 5. Nếu không trực tiếp tiếp xúc, tìm hiểu thực tế thì những vấn đề đặt ra sẽ rất mơ hồ, tính chính xác không cao dẫn đến tính khả thi của các giải pháp đặt ra chắc chắn sẽ thấp. Vì thế mà trong đề tài này tôi rất coi trọng phương pháp khảo sát thực tế. Đấy được coi là phương pháp chủ đạo để điều chỉnh, đưa ra các biện pháp để học sinh học tập hiệu quả
hóa kiến thức sau mỗi chương và giúp học sinh hiểu bài, nhớ lâu, nhớ sâu. 2.2. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy. + Đối với học sinh BĐTD giúp học sinh học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp học cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là môn học thuộc như Lịch sử, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học học sinh sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển được tư duy. Giúp học sinh học tập một cách tích cực: Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình, vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa sự tư duy và sáng tạo của học mình, từ đó nhớ bài lâu và hiểu bài sâu. Học sinh tự vẽ BĐTD có ưu điểm: Phát huy tối đa tính sáng tạo, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của mình, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và BĐTD do các em tự thiết kế vì vậy các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình. + Đối với giáo viên Bản đồ tư duy - phương pháp dạy học bằng cách sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết, với sự tư duy tích cực không chỉ tạo hứng thú trong học tập của học sinh mà còn góp phần đổi mới và làm phong phú các phương pháp giáo dục tích cực. Dạy học bằng BĐTD dành nhiều thời gian cho học sinh làm việc, chia sẻ với bạn bè, công việc của giáo viên đỡ vất vả nhiều so với cách dạy truyền thống. Dạy học bằng BĐTD giúp học sinh thuộc bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu, nhớ lâu và nhớ chính xác những nội dung bài học. Dạy học bằng phương pháp BĐTD giúp các em không thấy nhàm chán vì bài học dài dòng mà luôn sôi nổi, hào hứng từ đầu đến cuối tiết học. Dạy học bằng BĐTD sẽ nâng cao hiệu quả trong việc củng cố kiến thức, rèn các kỹ năng và phát triển tư duy lôgíc cho HS. Với chủ trương giảm tải, dạy bằng BĐTD sẽ làm cho cô và trò không bị mất thời gian vào các chi tiết vụn vặn, trùng lặp mà tập trung thảo luận sâu và phát triển vấn đề cốt lõi của bài. Dạy học bằng BĐTD còn có tác dụng phát huy được khả năng sáng tạo, lập BĐTD theo sự hiểu biết của mình hiểu bài, nhớ bài sâu và lâu. Đổi mới phương pháp dạy học xưa và nay thường gắn liền với đổi mới khoa học công nghệ, đòi hỏi hạ tầng cơ sở vật chất tốt. Những điều kiện này lại thường khó thực hiện ở các trường vùng sâu vùng xa, nơi kinh tế còn nhiều khó khăn. Song dạy học bằng BĐTD có thể dạy được ở tất cả các trường học nơi cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư hoặc đầu tư chưa đầy đủ vẫn có thể áp dụng tốt bằng cách làm bảng phụ. 3. Cơ sở thực tiễn. BĐTD đã được ứng dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới cách đây 20-30 năm nhiều nước trên thế giới đã ứng dụng BĐTD trong giảng dạy, học tập, làm việc, kinh doanh lập kế hoạch. Thế nhưng ở Việt Nam chỉ mới biết đến BĐTD trong những năm gần đây. Việc sử dụng BĐTD trong cuộc sống và học tập ở Việt Nam còn rất hạn chế, chưa được ứng dụng rộng rãi. Đặc biệt việc vận dụng BĐTD vào trong dạy học ở Tiểu học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng còn quá ít. Trong khi cả xã hội đang bức xúc với việc “ đọc – chép”, thói quen “ học vẹt” của học sinh thì việc sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực đã đem lại nhiều hiệu quả và lợi ích thiết thực.Việc vận dụng BĐTD trong dạy học khắc phục được dần thói quen học vẹt, tư duy máy móc và dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết và nắm bắt vấn đề một cách sâu sắc, “ định vị trong đầu” được các kiến thức, sự kiện cơ bản, có cách nhìn nhận vấn đề một cách khoa học, hệ thống, không chỉ học tốt các kiến thức trong sách vở mà còn nắm bắt được các kiến thức trong thực tế cuộc sống. Thực tế cho thấy một số học sinh (HS) học rất chăm chỉ nhưng vẫn học chưa tốt. Các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số HS này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình BĐTD giúp HS học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp HS, học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Vận dụng BĐTD trong dạy học, giáo viên (GV) giúp HS tập có thói quen tự tay ghi chép hay tổng kết một vấn đề, một chủ đề đã đọc, đã học theo cách hiểu của các em dưới dạng BĐTD. Có thể nói: Việc vận dụng BĐTD vào dạy học Lịch sử ở tiểu học vẫn đang là vấn đề khá mới mẻ. Vì vậy để cụ thể hóa phương pháp này trong giảng dạy Lịch sử , ứng dụng và triển khai trên diện rộng là vấn đề cần được tiếp tục bàn luận, trao đổi. Với đề tài này, tôi mong muốn được góp phần vào việc cải tiến phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học môn Lịch sử ở Tiểu học nói riêng. 4. Thực trạng của vấn đề. Qua nắm bắt tình hình và trao đổi với đồng nghiệp về việc giảng dạy lịch sử bằng Bản đồ tư duy bản thân tôi nhận thấy những thuận lợi và khó khăn của việc sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Lịch sử ở Tiểu học như sau: 4.1. Thuận lợi. - Đây là phương pháp học tập mới thoải mái, vui vẻ và sáng tạo, thú vị .. - Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên đựơc sự ủng hộ từ các cấp, xã hội, phụ huynh, học sinh - Chương trình phân môn lịch sử 5 có nhiều nội dung phù hợp với phương pháp dạy bài mới, củng cố bài bằng sơ đồ tư duy phát huy hiệu quả cao khi giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc - Về cơ sở vật chất đã có một số đổi mới tạo điều kiện cho hoạt động học tập: phòng CNTT, đèn chiếu, bảng phụ - Xã hội hiện nay tạo điều kiện cho con người (giáo viên và học sinh) có điều kiện tiếp cận nhiều nguồn thông tin từ nhiều phương tiện khác nhau. - Phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy bài mới, củng cố bài phù hợp tâm sinh lý lứa tuổi học sinh, khắc phục được sự nhàm chán của phương pháp dạy học truyền thống. Vì vậy, sử dụng sơ đồ tư duy sẽ gây hứng thú cho người học, kích thích học sinh tư duy tích cực. 4.2. Khó khăn: + Về phía giáo viên: Đây là phương pháp dạy học mới nên giáo viên và học sinh không tránh khỏi lúng túng trong một số kĩ năng như sưu tầm, xử lý thông tin, vẽ, ý tưởng Đòi hỏi giáo viên phải có nhiều kĩ năng khác ngoài kĩ năng sư phạm. Giáo viên khó khăn trong việc đánh giá cụ thể hiệu quả làm việc của từng học sinh. Khi giảng dạy một tiết Lịch sử rất đơn giản, chỉ cần lấy sẵn một tiết nào đó có ở mạng Internet và chỉnh sửa đôi chút , giáo viên chưa hướng dẫn cụ thể cho học sinh cách thiết kế và sử dụng nắm bắt kiến thức ở BĐTD ra sao. Bên cạnh đó một số giáo viên chưa thật sự chú trọng đến phương pháp dạy học này. + Về phía học sinh: Năng lực học sinh không đồng đều nên đôi khi việc vẽ sơ đồ tư duy trong học tập là sự máy móc không hiệu quả, đặc biệt đối với học sinh vùng nông thôn chưa được tiếp cận với những phương pháp học tập mới. Mặt khác, hạn chế của học sinh là chưa biết cách học, cách ghi kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, Học sinh chưa có thói quen chuẩn bị đồ dùng học tập như giấy A4, bút màu, bút chì, tẩy hoặc bảng phụ trong tiết học lịch sử mà chỉ dùng cho trong tiết học Mỹ thuật. Mặt khác, học sinh chưa hiểu rõ cách thể hiện nội dung, kiến thức như thế nào trong việc thiết kế và sử dụng Bản đồ tư duy. Hầu như các em chưa có thói quen tìm hiểu, vận dụng, sáng tạo mà chỉ quen nghe, quen ghi chép những gì mà giáo viên nói. Hơn nữa chương trình lịch sử quá rộng, kiến thức nhiều mà giáo viên chưa rút gọn những gì cần truyền đạt, những gì chỉ giới thiệu qua và những vấn đề nào cần hướng dẫn cho học sinh. Qua tìm hiểu, tôi nắm được kết quả kiểm tra đầu năm (tháng 8/2016) môn Lịch sử của hai lớp như sau: Lớp Năm học 2016 - 2017 Số HS Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành SL % SL % SL % Lớp 5E 34 29 85 5 15 0 0 Lớp 5G 37 30 81 7 19 0 0 Nhìn vào bài làm và kết quả tổng hợp trên tôi thấy số lượng học sinh hoàn thành tốt và hoàn thành ở hai lớp tương đương nhau. Điều đáng nói là vẫn còn một số lượng không ít học sinh hoàn thành và tìm hiểu về thái độ của học sinh hai lớp đối với phân môn Lịch sử thì phần lớn học sinh của cả hai lớp đều cảm thấy lo lắng khi học Lịch sử bởi các em sợ phải học thuộc vì có nhiều sự kiện Lịch sử, nhiều mốc thời gian nên dễ nhầm lẫn... Thực trạng trên khiến tôi và không ít giáo viên, các nhà quản lý giáo dục băn khoăn, trăn trở. Nó thôi thúc tôi nghiên cứu biện pháp nâng cao chất lượng và hứng thú cho học sinh khi học Lịch sử. Chính vì vậy tôi đã đi sâu nghiên cứu các phương pháp dạy - học Lịch sử. 5. Phương pháp tiến hành Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng những phương pháp cơ bản sau: 5.1 Phương pháp phân tích lí thuyết Tôi sử dụng phương pháp này để xem xét, tìm hiểu những vấn đề có lí thuyết liên quan đến đề tài. Một số vấn đề cơ bản của lí thuyết BĐTD. Vận dụng lí thuyết BĐTD vào dạy học Lịch sử ở lớp 5. Những lí thuyết mà tôi nghiên cứu thông qua sách báo, tạp chí, văn kiện, nghị quyết của đảng và một số luận văn sau đại học... Tôi vận dụng điều đó để xây dựng BĐTD của một số bài Lịch sử lớp 5. 5.2 Phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu. Những phương pháp này chủ yếu dùng vào việc điều tra, khảo sát và xử lí các kết quả thu nhận được trong quá trình thực nghiệm. Đây là những phương pháp giúp tôi có điều kiện nhìn nhận được những vấn đề được nghiên cứu, có sự so sánh và đối chiếu lẫn nhau (cụ thể là lớp thực nghiệm và lớp đối chứng). Từ đó có thể rút ra những kết luận hợp lí, vừa có cơ sở lí luận, vừa có cơ sở thực tiễn. Tuy những con số đưa ra có thể chưa đạt đến độ chính xác tuyệt đối nhưng với những số liệu ấy, người đọc sẽ có phần tin cậy hơn về tính khả thi của vấn đề đưa ra trong đề tài. 5.3 Phương pháp khảo sát thực tế. Sau khi nghiên cứu những vấn đề lí thuyết , chúng tôi tiến hành khảo sát thực tế. chúng tôi dùng phương pháp này để khảo sát về thực trạng sử dụng BĐTD trong dạy học Lịch sử lớp 5. Nếu không trực tiếp tiếp xúc, tìm hiểu thực tế thì những vấn đề đặt ra sẽ rất mơ hồ, tính chính xác không cao dẫn đến tính khả thi của các giải pháp đặt ra chắc chắn sẽ thấp. Vì thế mà trong đề tài này tôi rất coi trọng phương pháp khảo sát thực tế. Đấy được coi là phương pháp chủ đạo để điều chỉnh, đưa ra các biện pháp để học sinh học tập hiệu quả. 5.4 Phương pháp thực nghiệm. Đây là một phương pháp rất quan trọng không thể thiếu khi đi vào nghiên cứu đề tài này. Phương pháp thực nghiệm nhằm kiểm tra khả năng ứng dụng thực tiễn và tính khả thi của những vấn đề đưa ra trong đề tài. Phương pháp thực nghiệm thể hiện ở cách thức tiến hành thực nghiệm. Vì vậy, nếu biết vận dụng phương pháp này một cách tối ưu thì sẽ thu được kết quả thực nghiệm tốt. Kết quả này lại là cơ sở thực tế củng cố cho những giải pháp ở phần tiếp theo của đề tài. 6. Các giải pháp của đề tài. 6.1. Những bước chuẩn bị để sử dụng Bản đồ tư duy: Để HS hiểu và vẽ được Bản đồ tư duy thì ngay từ đầu năm học cần hướng dẫn học sinh: Làm quen với Bản đồ tư duy để thấy được vai trò, sự cần thiết của BĐTD trong giờ học Lịch sử, từ đó hướng dẫn các em biết cách thiết kế và sử dụng BĐTD sao cho hiệu quả. Bước 1: Hướng dẫn học sinh làm quen với BĐTD Để thực hiện bước này, trước tiên giáo viên cho học sinh quan sát hình ảnh về BĐTD, tìm hiểu về BĐTD trong tài liệu do giáo viên chuẩn bị. Trong quá trình quan sát, giáo viên lưu ý học sinh chú ý đến các cụm từ ngắn gọn (từ khóa, ý chính), hình vẽ, màu sắc, hình ảnh liên tưởng đến nội dung thể hiện trong BĐTD. Giáo viên có thể cho học sinh làm quen, đọc hiểu BĐTD bằng cách giới thiệu cho học sinh một số BĐTD do mình tự thiết kế sẵn hoặc sưu tầm. Cho học sinh quan sát, tìm hiểu một vài BĐTD và tập thuyết trình, diễn giải mạch lạc nội dung, chi tiết kết hợp với thao tác chỉ dẫn kiến thức có trong BĐTD. Hướng dẫn học sinh cách đọc BĐTD: Nếu không có số thứ tự, đọc từ trong (chủ đề chính) ra ngoài, từ trái sang phải, từ trên xuống dưới; có số thứ tự, đọc theo các số từ bé đến lớn. Bước 2: Tập đọc hiểu bản đồ tư duy. Sau đó để có bài dạy với bản đồ tư duy thực sự hiệu quả, việc đầu tiên là phải chuẩn bị chu đáo trước giờ dạy ở cả học sinh và giáo viên. Học sinh chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng cần thiết để vẽ bản đồ tư duy (BĐTD) trong tiết học Lịch sử bao gồm: Bút chì, tẩy, bút màu hoặc sáp vẽ; chất liệu như giấy khổ A4 hoặc giấy bìa (lịch cũ, ...) Cùng với đó là chuẩn bị kĩ bài học ở nhà bằng cách đọc thông tin, sưu tầm tư liệu, tranh ảnh liên quan đến sự kiện hay nhân vật lịch sử của bài học trên sách báo, mạng internet, ... Chủ động trong các kỹ năng hoạt động như: nghiên cứu, thảo luận, tranh luận, làm việc theo nhóm, làm việc cá nhân, trình bày, báo cáo kết quả...có thái độ hợp tác vui vẻ, thoải mái, chủ động, tích cực. Đối với giáo viên, để sử dụng BĐTD vào dạy học đạt hiệu quả, cần xây dựng kế hoạch bài giảng chu đáo, thiết kế bài giảng chi tiết, phù hợp với yêu cầu kiến thức cần đạt và đối tượng học sinh trong lớp. Đồng thời, chuẩn bị đầy đủ các thiết bị dạy học, tư liệu, thông tin cần thiết để hướng dẫn học sinh xây dựng được BĐTD một cách hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, sử dụng thành thạo phần mềm iMindmap để thiết kế BĐTD khi dạy học bằng giáo án điện tử hoặc thiết kế trò chơi dạy học bằng BĐTD trong các phần củng cố bài học. Bước 3: Hướng dẫn học sinh vẽ BĐTD Trước tiên, giáo viên dạy học sinh cách thiết kế BĐTD bằng cách cho học sinh hoàn thiện các BĐTD do giáo viên vẽ sẵn nhưng thiếu nhánh, thiếu nội dung Học sinh dùng bút chì, bút màu vẽ thêm nhánh, điền thêm kiến thức, vẽ thêm hình ảnh liên tưởng,... theo gợi ý của giáo viên. Cần để học sinh vẽ thật thoải mái sau đó ngắm lại “tác phẩm”của mình và hoàn thiện gọn gàng bố cục. Học sinh thực hành vẽ BĐTD trên giấy, bìa, bảng.Việc này có thể qua các thao tác cụ thể như sau : Thao tác 1: Chọn từ trung tâm ( từ khóa, hình vẽ, biểu tượng) cho một nội dung lớn của bài học. Ví dụ: Cuộc phản công ở kinh thành Huế; Nội dung cơ bản Hiệp định Pa-ri; Phan Bội Châu, Thao tác 2: Vẽ nhánh cấp 1. Các nhánh cấp 1 thể hiện các nội dung chính của bài hay của từng phần. Thao tác 3: Vẽ nhánh cấp 2, cấp 3, Thao tác này là quá trình lặp lại của thao tác 2, các cụm từ ghi ở thao tác 2 trở thành từ khóa của nhánh cấp 3, cấp 4. Thao tác 4: Hoàn thiện Bản đồ tư duy. BĐTD là một sơ đồ mở, mỗi người có thể vẽ theo một cách khác nhau, dùng hình ảnh khác nhau, màu sắc khác nhau để chuyển tải nội dung phù hợp với năng khiếu thẩm mỹ riêng. Vì vậy có thể bổ sung nhánh, tô màu, hoặc bớt nhánh nếu cần thiết. 6.2. Cách sử dụng Bản đồ tư duy trong các hoạt động học ở lớp Các hoạt động dạy học trong tiết Lịch sử có thể sử dụng BĐTD gồm: 6.2.1 Sử dụng bản đồ tư duy trong phần kiểm tra bài cũ: Vì thời gian kiểm tra bài cũ không nhiều, khoảng từ 5-7 phút nên yêu cầu của GV thường đơn giản. GV thường kiểm tra bằng cách gọi HS lên bảng trả lời câu hỏi. GV sẽ nhậ xét,đánh giá tùy mức độ thuộc bài của học sinh. Cách làm này vô tình để nhiều học sinh rơi vào tình trạng “học vẹt”, đọc thuộc lòng mà không hiểu bài. Do đó cần phả có sự thay đổi trong việc kiểm tra đánh giá nhận thức của học sinh,yêu cầu đặt ra không chỉ “ phần nhớ” mà cần chú trọng đến “phần hiểu”. Cách làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác học sinh. Sử dụng Bản đồ tư duy vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của học sinh đối với học bài cũ. Dùng sơ đồ mở (giáo viên vẽ sẵn, học sinh điền thông tin); học sinh vẽ BĐTD đơn giản theo nội dung yêu cầu. 6.2.2 Sử dụng bản đồ tư duy trong phần dạy kiến thức mới: Nếu theo hình thức cuốn chiếu, giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ theo từng phần của nội dung bài học. Một bài học có thể vẽ vài BĐTD khác nhau. Nếu theo hình thức mảnh ghép: Có thể cho mỗi nhóm vẽ một phần nội dung của bài học rồi tổng hợp lại thành nội dung bài học lớn. VD mỗi cá nhân hoàn thành 1 nhánh trong các nhánh: Chuẩn bị, diễn biến, kết quả-ý nghĩa sau đó nhóm trưởng tập hợp lại thành một Bản đồ hoàn chỉnh. Ví dụ: Khi dạy về Chiến thắng Điện Biên Phủ, HS đọc sách giáo khoa, thảo luận nhóm theo gợi ý tìm hiểu của giáo viên theo 3 nhánh: Chuẩn bị của ta, diễn biến của chiến dịch, kết quả ý nghĩa. Đại diện các nhóm lên trình bày, có thể trình bày bằng Bản đồ tư duy như sau: 6.2.3 Sử dụng Bản đồ tư duy trong phần củng cố kiến thức bài học. Hoạt động củng cố, thực hành là một hoạt động vô cùng quan trọng trong việc củng cố và khắc sâu kiến thức trọng tâm của bài học. Tuy nhiên, thời gian dành cho hoạt động củng cố là rất ít, chỉ khoảng từ 3 - 5 phút. Vì vậy, khi thiết kế trò chơi bằng BĐTD để củng cố bài, giáo viên có thể thiết kế bằng nhiều hình thức khác nhau thông qua việc phối kết hợp nhịp nhàng giữa thầy và trò để đảm bảo về thời gian cũng như kiến thức trọng tâm cần củng cố. Có thể cho học sinh vẽ BĐTD để tổng hợp, củng cố kiến thức từng phần hoặc cả bài. Hoặc cũng có thể tổ chức trò chơi hình thành BĐTD theo hệ thống câu hỏi gợi mở. Các hoạt động trong bài ôn tập: có thể cho học sinh vẽ BĐTD để ôn tập từng sự kiện hay cả một giai đoạn lịch sử. Ví dụ : Bài Thu - đông 1947, Việt Bắc “Mồ chôn giặc Pháp”. Sau khi học sinh hoạt động nhóm, tìm hiểu và hoạt động cơ bản về Chiến thắng Việt Bắc (1947) xong, giáo viên tổ chức cho cá nhân hoặc nhóm nhỏ dựa vào nội dung sách giáo khoa và lược đồ để hoàn thành Bản đồ, có thể như sau: 6.2.4 Sử dụng Bản đồ tư duy trong phần hướng dẫn học sinh học ở nhà: Vì ở nhà học sinh có nhiều thời gian và điều kiện để tìm kiếm tài liệu nên yêu cầu mà giáo viên giao cho học sinh chuẩn bị trước hết phải gắn với nội dung bài học và trong điều kiện cho phép (trình độ học sinh, thời gian, kinh tế).Yêu cầu với bài về nhà cũng cần khó hơn, phức tạp hơn và cần sự đầu tư lớn hơn (cả kênh chữ, kênh hình, màu sắc, lượng thông tin) qua đó còn thể hiện cả tính sáng tạo và sự tích cực tìm kiếm tài liệu của học sinh. VD : Sau bài học Thu - đông 1947, Việt Bắc “Mồ chôn giặc Pháp”, GV yêu cầu học sinh về nhà thực hiện hoạt động ứng dụng bằng việc nghiên cứu sách giáo khoa, tra cứu tài liệu để hoàn thành Bản đồ tư duy về Chiến dịch Biên giới 1950. Sản phẩm của các em sẽ trưng bày ở góc học tập của lớp. Bản đồ đó được hoàn thiện đầy đủ như sau: 6.3. Các bước học tập của HS bằng Bản đồ tư duy khi dạy Lịch sử lớp 5 Sau khi giúp học sinh nắm vững được phương cách xây dựng BĐTD và quy trình tự xây dựng BĐTD trong học tập, giáo viên có thể thiết kế cho học sinh các bước học tập trên lớp với BĐTD trong phân môn Lịch sử như sau: Bước 1: Lập Bản đồ tư duy Học sinh lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý của giáo viên: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc sách giáo khoa, hoặc quan sát hình ảnh, tìm hiểu thông tin, từ đó nêu tình huống có vấn đề (liên quan đến chủ đề chính). Gợi mở, hướng dẫn học sinh đặt tên cho chủ đề cần tìm hiểu; gợi ý, định hướng để học sinh vẽ tiếp các nhánh chính cấp 1, cấp 2, ... ; học sinh hoàn thiện BĐTD. Bước 2: Báo cáo kết quả Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết trình về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. Bước 3:Học sinh thảo luận, bổ sung kết quả: Học sinh cả lớp thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài
File đính kèm:
- skkn_nang_cao_chat_luong_day_hoc_lich_su_lop_5_bang_cach_su.doc