SKKN Tìm hiểu phương pháp dạy học để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh

Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh

pdf14 trang | Chia sẻ: Anh Thúy | Ngày: 17/11/2023 | Lượt xem: 167 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung SKKN Tìm hiểu phương pháp dạy học để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, để tải tài liệu về máy bạn hãy click vào nút TẢI VỀ
hành 
động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng. 
b. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học. 
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh 
không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy 
học. Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin, khoa học, 
kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão - thì không thể nhồi nhét vào đầu óc học 
5 
sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho học sinh phương 
pháp học ngay từ bậc Tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải được chú trọng. 
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện 
cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho 
họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ 
được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học 
trong qúa trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học 
chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học 
ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên. 
c. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác. 
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng 
đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóa 
về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế 
thành một chuỗi công tác độc lập. 
Áp dụng phương pháp tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này càng 
lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng 
yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh. 
Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được 
hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp 
thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường 
chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến 
mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên 
một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của 
người thầy giáo. 
Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, 
lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác trong 
nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải 
giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuát hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá 
nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ không thể có 
hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát 
triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Mô hình hợp tác trong xã hội đưa 
vào đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần với sự phân công hợp tác 
trong lao động xã hội. 
Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia, liên quốc 
gia; năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà trường phải chuẩn 
bị cho học sinh. 
d. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. 
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định 
thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận 
định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. 
Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp tích 
cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh 
6 
cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh 
được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời 
là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho 
học sinh. 
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con người 
năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá không thể 
dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải khuyến 
khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế. 
Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là một 
công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời hơn để linh 
hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học. 
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng 
vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ 
chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm 
lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu 
cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính, giáo viên có vẻ nhàn nhã 
hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo viên đã phải đầu tư công sức, thời gian rất 
nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là 
người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào 
hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu 
rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của 
học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên. 
Có thể so sánh đặc trưng của dạy học cổ truyền và dạy học mới như sau: 
 Dạy học cổ truyền Các mô hình dạy học mới 
Quan niệm 
Học là qúa trình tiếp thu và lĩnh 
hội, qua đó hình thành kiến thức, 
kĩ năng, tư tưởng, tình cảm. 
Học là qúa trình kiến tạo; học 
sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện,
luyện tập, khai thác và xử lý 
thông tin, tự hình thành hiểu 
biết, năng lực và phẩm chất. 
Bản chất 
Truyền thụ tri thức, truyền thụ và 
chứng minh chân lí của giáo viên. 
Tổ chức hoạt động nhận thức cho 
học sinh. Dạy học sinh cách tìm 
ra chân lí. 
Mục tiêu 
Chú trọng cung cấp tri thức, kĩ 
năng, kĩ xảo. Học để đối phó với 
thi cử. Sau khi thi xong những 
điều đã học thường bị bỏ quên 
hoặc ít dùng đến. 
Chú trọng hình thành các năng 
lực (sáng tạo, hợp tác,) dạy 
phương pháp và kĩ thuật lao động 
khoa học, dạy cách học. Học để
đáp ứng những yêu cầu của cuộc 
sống hiện tại và tương lai. Những 
điều đã học cần thiết, bổ ích cho 
bản thân học sinh và cho sự phát 
triển xã hội. 
Nội dung 
Từ sách giáo khoa + giáo viên 
Từ nhiều nguồn khác nhau: SGK, 
GV, các tài liệu khoa học phù 
7 
hợp, thí nghiệm, bảng tàng, thực 
tế: gắn với: 
- Vốn hiểu biết, kinh nghiệm và 
nhu cầu của HS. 
- Tình huống thực tế, bối cảnh và 
môi trường địa phương 
- Những vấn đề học sinh quan 
tâm. 
Phương pháp 
Các phương pháp diễn giảng, 
truyền thụ kiến thức một chiều. 
Các phương pháp tìm tòi, điều 
tra, giải quyết vấn đề; dạy học
tương tác. 
Hình thức tổ
chức 
Cố định: Giới hạn trong 4 bức 
tường của lớp học, giáo viên đối 
diện với cả lớp. 
Cơ động, linh hoạt: Học ở lớp, ở
phòng thí nghiệm, ở hiện trường, 
trong thực tế, học cá nhân, 
học đôi bạn, học theo cả nhóm, 
cả lớp đối diện với giáo viên. 
3. Một số phương pháp dạy học tích. 
a. Phương pháp vấn đáp: 
Vấn đáp ( đàm thoại ) là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh 
trả lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên; qua đó học sinh 
lĩnh hội được nội dung bài học. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức, người ta 
phân biệt các loại phương pháp vấn đáp: 
- Vấn đáp tái hiện: giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức 
đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Vấn đáp tái hiện không được 
xem là phương pháp có giá trị sư phạm. Đó là biện pháp được dùng khi cần đặt mối 
liên hệ giữa các kiến thức vừa mới học. 
- Vấn đáp giải thích – minh hoạ: Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài nào đó, 
giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để học sinh 
dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của các 
phương tiện nghe – nhìn. 
- Vấn đáp tìm tòi (đàm thoại Ơxrixtic): giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi 
được sắp xếp hợp lý để hướng học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, 
tính quy luật của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết. Giáo 
viên tổ chức sự trao đổi ý kiến – kể cả tranh luận – giữa thầy với cả lớp, có khi giữa 
trò với trò, nhằm giải quyết một vấn đề xác định. Trong vấn đáp tìm tòi, giáo viên 
giống như người tổ chức sự tìm tòi, còn học sinh giống như người tự lực phát hiện 
kiến thức mới. Vì vậy, khi kết thúc cuộc đàm thoại, học sinh có được niềm vui của sự 
khám phá trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy. 
b. Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề: 
Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay 
gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là 
một năng lực đảm bảo sự thành công trong cuộc sống, đặc biệt trong kinh doanh. Vì 
8 
vậy, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải 
trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, gia đình và cộng đồng không chỉ có ý 
nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và 
đào tạo. Cấu trúc một bài học (hoặc một phần bài học) theo phương pháp đặt và giải 
quyết vấn đề thường như sau: 
- Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức: 
o Tạo tình huống có vấn đề; 
o Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh; 
o Phát hiện vấn đề cần giải quyết 
- Giải quyết vấn đề đặt ra: 
o Đề xuất cách giải quyết; 
o Lập kế hoạch giải quyết; 
o Thực hiện kế hoạch giải quyết. 
- Kết luận: 
o Thảo luận kết quả và đánh giá; 
o Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra; 
o Phát biểu kết luận; 
o Đề xuất vấn đề mới. 
Có thể phân biệt bốn mức trình độ đặt và giải quyết vấn đề: 
Mức 1: Giáo viên đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện 
cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên đánh giá kết quả làm 
việc của học sinh. 
Mức 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn đề. 
Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của giáo viên khi cần. Giáo 
viên và học sinh cùng đánh giá. 
Mức 3: Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề. Học sinh phát 
hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp. Học 
sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá. 
Mức 4 : Học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình 
hoặc cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. Học sinh giải quyết vấn đề, tự đánh giá 
chất lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc. 
Các mức Đặt vấn đề Nêu giả thuyết Lập kế hoạch 
Giải quyết 
vấn đề 
Kết luận, 
đánh giá 
1 GV GV GV HS GV 
2 GV GV HS HS GV + HS 
3 GV + HS HS HS HS GV + HS 
4 HS HS HS HS GV + HS 
Trong dạy học theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, học sinh vừa nắm được tri 
thức mới, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó, phát triển tư duy tích cực, 
sáng tạo, được chuẩn bị một năng lực thích ứng với đời sống xã hội, phát hiện kịp 
thời và giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh. 
9 
c. Phương pháp hoạt động nhóm 
Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục đích, yêu 
cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được 
duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm 
vụ hay những nhiệm vụ khác nhau. 
Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi 
người một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, 
không thể ỷ lại vào một vài người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong 
nhóm giúp đỡ nhau tìm hiêu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. 
Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. 
Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại 
diện hoặc phân công mỗi thành viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm 
là khá phức tạp. 
Phương pháp hoạt động nhóm có thể tiến hành: 
· Làm việc chung cả lớp : 
- Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức 
- Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ 
- Hướng dẫn cách làm việc trong nhóm 
· Làm việc theo nhóm 
- Phân công trong nhóm 
- Cá nhân làm việc độc lập rồi trao đổi hoặc tổ chức thảo luận trong nhóm 
- Cử đại diện hoặc phân công trình bày kết quả làm việc theo nhóm 
· Tổng kết trước lớp 
- Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả 
- Thảo luận chung 
- Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo, hoặc vấn đề tiếp theo trong bài 
Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ các băn 
khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói 
ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ 
đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi 
lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ giáo viên. 
Thành công của bài học phụ thuộc vào sự nhiệt tình tham gia của mọi thành 
viên, vì vậy phương pháp này còn gọi là phương pháp cùng tham gia. Tuy nhiên, 
phương pháp này bị hạn chế bởi không gian chật hẹp của lớp học, bởi thời gian hạn 
định của tiết học, cho nên giáo viên phải biết tổ chức hợp lý và học sinh đã khá quen 
với phương pháp này thì mới có kết quả. Cần nhớ rằng, trong hoạt động nhóm, tư duy 
tích cực của học sinh phải được phát huy và ý nghĩa quan trọng của phương pháp này 
là rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên trong tổ chức lao động.Cần tránh 
khuynh hướng hình thưc và đề phòng lạm dụng, cho rằng tổ chức hoạt động nhóm là 
dấu hiệu tiêu biểu nhất của đổi mới PPDH và hoạt động nhóm càng nhiều thì chứng 
tỏ phương pháp dạy học càng đổi mới. 
d. Phương pháp đóng vai 
10 
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách ứng xử 
nào đó trong một tình huống giả định. Phương pháp đóng vai có những ưu điểm sau : 
- Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ 
trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn. 
- Gây hứng thú và chú ý cho học sinh. 
- Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh. 
- Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi 
đạo đức và chính trị – xã hội. 
- Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai 
diễn. 
Cách tiến hành có thể như sau : 
o Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm và quy định rõ thời 
gian chuẩn mực, thời gian đóng vai 
o Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai 
o Các nhóm lên đóng vai 
o Giáo viên phỏng vấn học sinh đóng vai 
- Vì sao em lại ứng xử như vậy ? 
- Cảm xúc, thái độ của em khi thực hiện cách ứng xử ? Khi nhận được cách ứng xử 
( đúng hoặc sai). 
o Lớp thảo luận, nhận xét: Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù hợp ? 
Chưa phù hợp ở điểm nào? Vì sao? 
o Giáo viên kết luận về cách ứng xử cần thiết trong tình huống. 
Những điều cần lưu ý khi sử dụng : 
o Tình huống nên để mở, không cho trước “ kịch bản”, lời thoại 
o Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai 
o Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai để không lạc đề 
o Nên khích lệ cả những học sinh nhút nhát tham gia 
o Nên hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trò chơi đóng vai 
e. Phương pháp động não 
Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được 
nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. 
Thực hiện phương pháp này, giáo viên cần đưa ra một hệ thống các thông tin làm tiền 
đề cho buổi thảo luận. 
. Cách tiến hành 
o Giáo viên nêu câu hỏi, vấn đề cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm 
o Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt 
o Liệt kê tất cả các ý kiến phát biểu đưa lên bảng hoặc giấy khổ to, không loại trừ một 
ý kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp 
o Phân loại ý kiến 
o Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và thảo luận sâu từng ý. 
4. Điều kiện áp dụng phương pháp dạy học tích cực: 
11 
a. Giáo viên: Giáo viên phải được đào tạo chu đáo để thích ứng với những thay 
đổi về chức năng, nhiệm vụ rất đa dạng và phức tạp của mình, nhiệt tình với công 
cuộc đổi mới giáo dục. Giáo viên vừa phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng, có 
trình độ sư phạm lành nghề, biết ứng sử tinh tế, biết sử dụng các công nghệ tin vào 
dạy học, biết định hướng phát triển của học sinh theo mục tiêu giáo dục nhưng cũng 
đảm bảo được sự tự do của học sinh trong hoạt động nhận thức. 
b. Học sinh: Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh phải dần dần có được 
những phẩm chất và năng lực thích ứng với phương pháp dạy học tích cực như: giác 
ngộ mục đích học tập, tự giác trong học tập, có ý thức trách nhiệm về kết quả học tập 
của mình và kết quả chung của lớp, biết tự học và tranh thủ học ở mọi nơi, mọi lúc, 
bằng mọi cách, phát triển các loại hình tư duy biện chứng, lôgíc, hình tượng, tư duy 
kĩ thuật, tư duy kinh tế 
c. Chương trình và sách giáo khoa: Phải giảm bớt khối lượng kiến thức nhồi 
nhét, tạo điều kiện cho thầy trò tổ chức những hoạt động học tập tích cực; giảm bớt 
những thông tin buộc học sinh phải thừa nhận và ghi nhớ máy móc, tăng cường các 
bài toán nhận thức để học sinh tập giải; giảm bớt những câu hỏi tái hiện, tăng cường 
loại câu hỏi phát triển trí thông minh; giảm bớt những kết luận áp đặt, tăng cường 
những gợi ý để học sinh tự nghiên cứu phát triển bài học. 
d. Thiết bị dạy học: 
Thiết bị dạy học là điều kiện không thể thiếu được cho việc triển khai chương 
trình, sách giáo khoa nói chung và đặc biệt cho việc triển khai đổi mới phương pháp 
dạy học hướng vào hoạt động tích cực, chủ động của học sinh. Đáp ứng yêu cầu này 
phương tiện thiết bị dạy học phải tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh thực hiện các 
hoạt động độc lập hoặc các hoạt động nhóm. 
Cơ sở vật chất của nhà trường cũng cần hỗ trợ đắc lực cho việc tổ chức dạy học 
được thay đổi dễ dàng, linh hoạt, phù hợp với dạy học cá thể, dạy học hợp tác. 
Trong qúa trình biên soạn sách giáo khoa, sách giáo viên, các tác giả đã chú ý 
lựa chọn danh mục thiết bị và chuẩn bị các thiết bị dạy học theo một số yêu cầu để có 
thể phát huy vai trò của thiết bị dạy học. Những yêu cầu này rất cần được các cán bộ 
chỉ đạo quản lý quán triệt và triển khai trong phạm vi mình phụ trách. Cụ thể như sau: 
- Đảm bảo tính đồng bộ, hệ thống, thực tế và đạt chất lượng cao, tạo điều kiện 
đẩy mạnh hoạt động của học sinh trên cơ sở tự giác, tự khám phá kiến thức thông qua 
hoạt động thực hành, thâm nhập thực tế trong qúa trình học tập. 
- Đảm bảo để nhà trường có thể đạt được thiết bị dạy học ở mức tối thiểu, đó là 
những thiết bị thực sự cần thiết không thể thiếu được. Các nhà thiết kế và sản xuất 
thiết bị dạy học sẽ quan tâm để có giá thành hợp lí với chất lượng đảm bảo. 
- Chú trọng thiết bị thực hành giúp học sinh tự tiến hành các bài thực hành thí 
nghiệm. Những thiết bị đơn giản có thể được giáo viên, học sinh tự làm góp phần làm 
phong phú thêm thiết bị dạy học của nhà trường. Công việc này rất cần được quan 
tâm và chỉ đạo của lãnh đạo trường, Sở. 
12 
- Đối với những thiết bị dạy học đắt tiền sẽ được sử dụng chung. Nhà trường 
cần lưu ý tới các hướng dẫn sử dụng, bảo quản và căn cứ vào điều kiện cụ thể của 
trường đề ra các quy định để thiết bị được giáo viên, học sinh sử dụng tối đa. 
Cần tính tới việc thiết kế đối với trường mới và bổ sung đối với trường cũ 
phòng học bộ môn, phòng học đa năng và kho chứa thiết bị bên cạnh các phòng học 
bộ môn. 
e. Đổi mới đánh giá kết quả học tập của học sinh: 
Đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong qúa trình giáo dục. 
Đánh giá thường nằm ở giai đoạn cuối cùng của một giai đoạn giáo dục và sẽ trở 
thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn, chất lượng

File đính kèm:

  • pdfskkn_tim_hieu_phuong_phap_day_hoc_de_phat_huy_tinh_tich_cuc.pdf