Soạn và dạy bài “đột biến gen” (Sinh học lớp 9) theo phương pháp dạy học tích cực
Trong lịch sử phát triển giáo dục đã hình thành một hệ thống phương pháp dạy học rất đa dạng, bao gồm các phương pháp truyền thống có từ lâu đời và chúng ta vẫn quen dùng như: Thuyết trình, đàm thoại, trực quan, ôn tập, kiểm tra.; cùng với các phương pháp dạy học hiện đại mới xuất hiện sau này và chưa quen dùng như: Dạy học nêu vấn đề, dạy học với công cụ máy tính điện tử. Đặc biệt từ năm học 2002-2003 việc đổi mới phương pháp dạy học đã và luôn được tiến hành trong toàn ngành Giáo dục và Đào tạo. Đối với giáo viên, việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực được thể hiện rõ qua các khâu thiết kế bài học và khâu tổ chức quá trình giảng dạy trên lớp.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện phương pháp mới này còn có những hạn chế sau:
ương pháp trên, nhiều giáo viên cũng có cố gắng dùng những phương pháp hoạt động nhóm, hoạt động trên phiếu học tập; dùng các phương tiện dạy học như tranh ảnh, sơ đồ, mô hình và đặc biệt là bảng phụ (bằng bìa cứng, bằng nhựa, giấy A0, ...). Những phương pháp, phương tiện đó rất quan trọng không thể thiếu được nhưng nhiều giáo viên đã quá lạm dụng nên dùng không đúng lúc, không phù hợp với nội dung từng bài học, cứ cho rằng đã là phương pháp mới thì lúc nào cũng phải tổ chức hoạt động nhóm, phải sử dụng thật nhiều bảng phụ...do đó đã đem lại hiệu quả ngược lại với sự mong muốn. Một vấn đề rất quan trọng nhưng lại thường không được chú trọng đó là việc ghi bảng của giáo viên. Với cách viết của sách giáo khoa mới (viết theo dạng mở, yêu cầu học sinh phải tìm tòi kiến thức...) thì việc ghi bảng đối với đối tượng học sinh bậc THCS vô cùng quan trọng. Tuy sử dụng theo phương pháp dạy học mới, nhưng không ít giáo viên hoặc là ghi bảng quá ít, sơ sài, thiếu cẩn thận kể cả về nội dung lẫn hình thức; hoặc là ghi bảng quá nhiều song vẫn không đủ những kiến thức cơ bản do chưa xác định đúng trọng tâm của bài học, mặc dù có giáo viên kết hợp cả nói cả ghi bảng nhưng vẫn làm chậm tiến trình giờ dạy do đó hiệu quả giờ học vẫn chưa cao. Vậy nguyên nhân của những tình trạng trên là do đâu. Trước hết là do một số giáo viên vẫn quen với cách dạy cũ, cho rằng do học sinh yếu, kém nên khó áp dụng phương pháp mới. Thứ hai do giáo viên vẫn chưa nắm bắt được tinh thần của sách giáo khoa, chưa xác định được trọng tâm của bài, còn lệ thuộc nhiều vào sách thiết kế có sẵn, thường đặt những câu hỏi chung chung thiên về tái hiện kiến thức, không có câu hỏi thực sự kích thích tư duy độc lập của học sinh. Nhìn chung giáo viên không chủ động trong giờ dạy mà chăm chăm trình bày những gì mình tích cóp được. Từ những hạn chế trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số đề xuất sau: Phần II. NỘI DUNG ĐỔI MỚI VỀ THIẾT KẾ BÀI HỌC: Nếu giáo án được chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo trước khi lên lớp thì nhất định cách dạy của thầy giáo sẽ chủ động, tự tin, linh hoạt và đạt chất lượng cao hơn. Dù người thầy, cô đó có tài giỏi, thông tuệ tới đâu đi nữa nhưng nếu không soạn giáo án hoặc soạn giáo án qua loa, hời hợt thì nhất định tiết dạy ấy, bài học ấy sẽ không tránh khỏi những lúng túng, bỡ ngỡ và sơ suất và chả có gì mới mẻ, sâu sắc hơn so với lần dạy trước về kiến thức, nội dung vì do phụ thuộc quá nhiều vào trí nhớ và kinh nghiệm của mình mà không cập nhật kiến thức, phương pháp mới. Vì vậy ở từng năm học, mỗi thầy cô giáo đều phải thực hiện nghiêm túc việc soạn giáo án theo quy định các bước lên lớp đã được phổ biến. Trong bài soạn cần chú ý những vấn đề sau: - Xác định mục tiêu của bài học: Trình bày cụ thể mức độ cần đạt được đối với kiến thức, kỹ năng và phát triển tư duy của học sinh. - Lựa chọn các kiến thức cơ bản, cần thiết và cập nhật theo một cấu trúc hợp lý không nhất thiết phải thực hiện tuần tự theo sách giáo khoa. - Lựa chọn các phương pháp và phương tiện gắn với từng nội dung cụ thể giúp học sinh khai thác tự chiếm lĩnh từng đơn vị kiến thức đặt ra. - Chuẩn bị nội dung bài giảng theo hệ thống câu hỏi dưới dạng các vấn đề mà giáo viên nêu ra, để thiết kế câu hỏi giáo viên phải nắm bắt được tinh thần của bài học, ý đồ của người viết sách. Việc tham khảo những giáo án soạn sẵn, những tài liệu tham khảo là cần thiết nhưng chỉ có tính chất tham khảo chứ không rập khuôn một cách máy móc. Giáo án phải là sản phẩm sáng tạo, trí tuệ, công sức của từng cá nhân, càng soạn, càng dạy, giáo án càng phải hoàn thiện, đầy đủ. Trong mỗi giáo án phải thể hiện được phương pháp rõ ràng phù hợp với từng kiểu bài, làm nổi bật được hoạt động giữa thầy và trò. ĐỔI MỚI VIỆC TỔ CHỨC DẠY HỌC TRÊN LỚP: Thực chất của việc đổi mới việc tổ chức việc dạy học ở trên lớp là giáo viên tổ chức thi công theo thiết kế bài dạy. Giờ học không chỉ đơn thuần là thực hiện đầy đủ các bước lên lớp mà theo từng đơn vị kiến thức thiết kế, giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác, trao đổi và xử lý tình huống có vấn đề đặt ra. Giáo viên có nhiệm vụ tạo ra không khí năng động ở trong lớp, chia sẻ niềm say mê của mình với học sinh, gây hứng thú ở học sinh (là điều kiện tiên quyết) nhất thiết gây nên mối quan hệ qua lại giữa người dạy và người học. Giáo viên tổ chức, điều khiển học sinh lĩnh hội từng vấn đề bằng cách: nêu vấn đề (dưới dạng những câu hỏi) dẫn dắt học sinh đi từng kiến thức đã học để giải quyết các đơn vị kiến thức mới, trong quá trình giải quyết các đơn vị kiến thức mới giáo viên có thể gọi một vài học sinh trả lời một câu hỏi và nhất thiết phải có sự nhận xét, đánh giá sau mỗi câu trả lời của học sinh. Nếu học sinh trả lời đầy đủ giáo viên có thể nhân đó mà đặt thêm câu hỏi khác hoặc có thể nhận xét và tóm tắt một cách ngắn gọn nội dung trả lời. Nếu học sinh trả lời đúng nhưng chưa đủ, giáo viên tóm tắt ý đã trả lời đúng, gọi thêm học sinh khác bổ sung. Nếu học sinh trả lời không đúng, cần có sự gợi ý điều chỉnh làm cho câu hỏi trở nên dễ hiểu hơn... giáo viên không nên thuyết trình dài dòng, không nên giành lấy quyền kết luận mà để cho học sinh tự kết luận, giáo viên chỉ bổ sung hay xác nhận. Như thế giờ học mới trở nên sôi nổi không bị gián đoạn (kể cả việc sử dụng các phương tiện dạy học như: sơ đồ, tranh ảnh, mô hình...) giáo viên phải tạo tạo ra những câu hỏi bất ngờ, những câu hỏi kích thích trí não của học sinh. Muốn vậy giáo viên phải nắm vững được nội dung then chốt của bài học. Như trên đã nêu, một vấn đề không kém phần quan trọng, đó là cách ghi bảng của giáo viên. Trước hết không nên ghi bảng dài dòng mà chỉ ghi những nội dung cơ bản nhất dưới dạng sơ đồ hóa hoặc những lời cô đúc nhất. Hiện nay việc sử dụng máy chiếu đã hỗ trợ rất nhiều cho việc ghi bảng nhưng vẫn cần chắt lọc nội dung cơ bản để học sinh có nhiều thời gian cho các hoạt động học tập khác. Sau đây tôi xin minh họa những vấn đề nêu trên thông qua một bài học trong chương trình Sinh học lớp 9: Bài 21 : ĐỘT BIẾN GEN. Qua thực tế dự giờ một số đồng nghiệp thường có những hạn chế sau: - Giáo viên không đặt bài học này trong mối quan hệ với các bài học trước thuộc các chương trước. - Việc sử dụng các phương tiện dạy học còn lệ thuộc vào sách giáo khoa, sách thiết kế, chưa có sự sáng tạo cho phù hợp với từng đối tượng học sinh nên vừa tốn kém mà hiệu quả lại chưa cao. - Hệ thống câu hỏi vụn vặt thiên về loại câu hỏi tái hiện kiến thức chưa có tính gợi mở, chưa kích thích được trí não của học sinh. - Các kiến thức của bài học được chuyển tải đến học sinh một cách cứng nhắc, rập khuôn theo sách giáo khoa, sách thiết kế có sẵn. Chưa hiểu hết ý của người viết sách nên chưa xác định đúng trọng tâm của bài. Vì vậy học sinh chưa hiểu rõ cơ chế gây đột biến gen. Đặc biệt phần “Vai trò của đột biến” học sinh chưa nắm rõ bản chất của hậu quả và tính chất biểu hiện của đột biến gen mà hiểu rất lơ mơ về vai trò của đột biến gen. - Nội dung ghi bảng còn dài dòng, chưa làm rõ “mạch bài”, học sinh cảm thấy nhàm chán khi thấy nội dung ghi trùng lặp với sách giáo khoa. Như vậy tình trạng chung của bài này là: Giáo viên còn lệ thuộc nhiều vào các giáo án có sẵn, chưa biết chắt lọc kiến thức từ các tài liệu tham khảo, giáo viên chưa chịu khó đầu tư suy nghĩ, không nghiên cứu tổng quát về hệ thống kiến thức cơ bản, mối quan hệ giữa bài này và bài khác, không đặt tình huống cho các em tìm hiểu thảo luận do đó hiệu quả giờ học chưa cao. Từ kinh nghiệm của bản thân, qua trao đổi với đồng nghiệp, tổ chuyên môn, tôi xin đưa ra một vài ý kiến nhỏ khi dạy bài “Đột biến gen” như sau: “Đột biến gen” là bài đầu tiên của chương IV: “Biến dị” song lại liên quan rất mật thiết với các bài 1, bài 4, bài 5 chương I; bài 19 chương III trong chương trình Sinh học lớp 9, do đó nếu giáo viên không chuẩn bị kỹ về kiến thức, không có phương pháp phù hợp sẽ dẫn đến tình trạng học sinh hiểu bài một cách hời hợt, không thấy được bản chất, cơ sở khoa học của đột biến gen và vai trò của đột biến gen. Mục tiêu của bài này là : Sau khi học xong, học sinh hiểu và trình bày được khái niệm và nguyên nhân phát sinh đột biến gen; tính chất biểu hiện và vai trò của đột biến gen đối với sinh vật và con người. Trước khi vào bài mới, giáo viên dành khoảng 5 phút để kiểm tra kiến thức cũ liên quan đến biến dị và giới thiệu chương. Hỏi: Em hãy nhắc lại hiện tượng biến dị mà chúng ta đã được học ở bài đầu tiên của chương trình sinh học lớp 9? Giáo viên tóm tắt lại và chuyển tiếp: “Để hiểu rõ về biến dị hôm nay chúng ta nghiên cứu chương IV: BIẾN DỊ.”(Giáo viên vừa giảng giải vừa viết trên góc phải của bảng sơ đồ dưới đây): Biến dị tổ hợp Di truyền Đột biến gen Biến dị Biến dị đột biến Cấu trúc Không di truyền (Thường biến) Đột biến NST Số lượng “Tiết học này chúng ta tìm hiểu về đột biến gen”: Bài 21: ĐỘT BIẾN GEN Hoạt động 1: Tìm hiểu một số dạng đột biến gen. Hình thành khái niệm đột biến gen. I- ĐỘT BIẾN GEN: Thông thường ở phần này giáo viên vẽ to hình 21.1, tô màu như SGK và dạy theo gợi ý của sách giáo viên với hệ thống câu hỏi đơn giản như sau: + Đoạn ADN ban đầu (a) có bao nhiêu cặp nuclêôtit và gồm những cặp nuclêôtit nào? trình tự các cặp nuclêôtit ra sao? + Đoạn (b) có bao nhiêu cặp nuclêôtit? So với đoạn (a) thì thiếu cặp nào? vậy dạng biến đổi đó là dạng gì? + Đoạn (c) có bao nhiêu cặp nuclêôtit? So với đoạn (a) thì thêm cặp nào? dạng biến đổi này gọi là dạng gì? + Đoạn (d) có bao nhiêu cặp nuclêôtit? Về số đoạn (a) và đoạn (d) có khác nhau không? Đoạn (d) khác với đoạn (a) ở cặp nuclêôtit nào? vậy dạng biến đổi này là dạng gì? Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh nêu định nghĩa đột biến gen. Về hình vẽ, với màu sắc như SGK khi treo trên bảng nhìn xa rất “rối mắt” khó phân biệt được từng cặp nuclêôtit. Đặc biệt với hệ thống câu hỏi như ở trên rất đơn điệu, trùng lặp gây nhàm chán đối với học sinh, rất mất mất thời gian và cuối cùng HS vẫn không hiểu rõ bản chất của đột biến gen. Từ những tồn tại trên, tôi đã đầu tư suy nghĩ xây dựng cách dạy phần này như sau: Giáo viên treo bảng phụ “Một số dạng đột biến gen”, giới thiệu nội dung trong bảng, hướng dẫn học sinh quan sát hình 21.1 SGK (không cần vẽ phóng to vì với màu sắc như vậy học sinh quan sát gần thì rõ, nhưng phóng to treo bảng nhìn xa rất khó quan sát mà lại gây tốn kém), yêu cầu học sinh hoạt động theo nhóm hoàn thành phiếu học tập với nội dung sau: (Mỗi bàn 1 phiếu trên giấy A4 ). MỘT SỐ DẠNG ĐỘT BIẾN GEN ĐOẠN GEN SỐ CẶP NUCLấễTIT ĐIỂM KHÁC SO VỚI ĐOẠN GEN ( a) ĐẶT TÊN DẠNG BIẾN ĐỔI a) T G A T X l l l l l A X T A G b) T G A T l l l l A X T A c) T G A T X T l l l l l l A X T A G A d) T G G T X l l l l l A X X A G Sau 5 phút giáo viên gọi đại diện của từng nhóm điền kết quả vào bảng phụ, giáo viên nhận xét bổ sung hoàn thành bảng. Hỏi: Qua một số dạng biến đổi trên, em hãy cho biết đột biến gen là gì? (Nội dung ghi bảng chữ “nghiêng”) : - Đột biến gen : là những biến đổi trong cấu trúc của gen liên quan tới một hoặc một số cặp nuclêôtit (mất, thêm, thay thế một cặp nuclêôtit). Giáo viên giải thích thêm: Trên đây là một số đột biến xảy ra ở một cặp nuclêôtit người ta gọi là đột biến điểm, ngoài ra còn có những trường hợp đột biến xảy ra ở một số cặp nuclêôtit gọi là đột biến cụm. Hỏi: Tại sao không nói: “ mất, thêm, thay thế một nuclêôtit mà lại nói mất, thêm, thay thế một cặp nuclêôtit”? (ADN có cấu trúc 2 mạch bổ sung, sự biến đổi 1 nuclêôtit ở mạch này thì sự biến đổi cũng xảy ra ở mạch kia). Giáo viên chỉ vào sơ đồ tóm tắt về biến dị trên góc bảng khi giới thiệu chương, vừa nói vừa ghi bảng : - Đột biến gen là biến dị di truyền. Hỏi: Đột biến gen là biến dị di truyền, tại sao? (Đột biến gen di truyền được là do khi đã phát sinh sẽ được “tái bản” qua cơ chế tự sao của ADN). Hỏi: Qua kiến thức đã được học ở bài “Lai hai cặp tính trạng” em thấy đột biến gen khác biến dị tổ hợp ở những điểm căn bản nào? (Biến dị tổ hợp: Các gen được sắp xếp lại (được tổ hợp lại) còn bản chất cấu trúc của gen không bị thay đổi). Giáo viên có thể lấy ví dụ lai 2 cặp tính trạng của Men đen để minh họa. Với cách dạy như trên, qua hoạt động nhóm học sinh đã nhanh chóng xác định được sự biến đổi về số lượng và cấu trúc của các gen so với gen (a) ban đầu, giành thời gian cho việc khai thác tìm tòi bản chất của đột biến gen. Đặc biệt qua 4 câu hỏi mang tính khám phá học sinh đã tích cực phát biểu xây dựng bài. Kết quả dưới sự hướng dẫn của thầy, học sinh đã nắm được các dạng đột biến gen và hiểu rõ bản chất của đột biến gen. Giáo viên chuyển mục 2 bằng cách đặt vấn đề: Vậy do đâu mà phát sinh đột biến gen? Hoạt động 2: Tìm hiểu nguyên nhân phát sinh đột biến gen. II-NGUYÊN NHÂN PHÁT SINH ĐỘT BIẾN GEN. Mục này trong SGK chỉ có 4 dòng và thông thường giáo viên yêu cầu học sinh đọc thông tin mục 2 trong SGk rồi hỏi: Nguyên nhân gây đột biến? học sinh trả lời như SGK, sau đó giáo viên đọc lại cho HS chép. Như vậy chỉ sau khoảng 5 phút đã hoàn thành mục này và kết quả học sinh chẳng hiểu gì về cơ chế phát sinh đột biến gen. Để học sinh hiểu rõ được cơ chế phát sinh đột biến gen, giáo viên nên dùng những câu hỏi có tính chất tư duy để xây dựng sơ đồ hình thành kiến thức, như vậy học sinh vừa hứng thú trong việc ghi bài và hiểu rõ về cơ chế phát sinh đột biến gen. Trước hết giáo viên yêu cầu học sinh nghiên cứu thông tin mục 2 SGK. Hỏi: Những nguyên nhân nào gây đột biến gen? Giáo viên nhận xét, bổ sung và ghi bảng theo dạng sơ đồ. Hỏi: Tại sao các tác nhân này tác động vào ADN lại gây đột biến gen? Giáo viên vừa nhận xét, xác nhận và bổ sung để hoàn thiện sơ đồ : Môi trường ngoài: Tia phóng xạ, Tác nhân hoá chất... Gây rối gây đột loạn quá biến gen trình tự Đột biến gen. Môi trường trong: Các quá trình sinh lí, nhân đôi sinh hoá bị rối loạn. của ADN Hoạt động 3: Tìm hiểu vai trò của đột biến gen. III. VAI TRÒ CỦA ĐỘT BIẾN GEN: Đây là phần mà hầu hết giáo viên thường dạy theo phương pháp thuyết trình chỉ duy nhất có một câu hỏi như SGK: “Hãy quan sát các hình sau đây và cho biết: đột biến nào có lợi, đột biến nào có hại cho bản thân sinh vật hoặc đối với con người” và cho học sinh ghi hoặc là 1 dòng như phần kết luận của sách giáo khoa hoặc là ghi rất dài dòng theo nội dung phần III SGK gây nhàm chán cho học sinh, kết quả học sinh hầu như không nắm rõ tính chất biểu hiện của đột biến gen và hậu quả của nó. Về thực chất, muốn hiểu rõ kiến thức ở mục này phải trên cơ sở kiến thức đã học ở các bài trước, vì vậy giáo viên phải biết cách khai thác kiến thức mới từ các kiến thức đã được học bằng hệ thống câu hỏi mở, bằng sơ đồ để dẫn dắt học sinh tự rút ra kết luận, sử dụng phương pháp này tôi thấy học sinh rất hứng thú và hiểu rõ bản chất của vấn đề nêu ra. Hậu quả và tính chất biểu hiện của đột biến gen: Giáo viên yêu cầu một học sinh nhắc lại sơ đồ mối quan hệ giữa gen và tính trạng đã học ở bài 19. Giáo viên viết sơ đồ (kiểu chữ “nghiêng”) lên bảng lường khoảng trống để trong quá trình học sinh khai thác kiến thức, giáo viên sẽ ghi tiếp để hoàn thiện sơ đồ (những chữ “đứng” là bổ sung sau). Sau khi viết sơ đồ (phần chữ “nghiêng”), giáo viên dẫn dắt học sinh tìm hiểu tính chất và hậu quả của đột biến gen: Hỏi: Qua sơ đồ em hãy suy nghĩ xem nếu gen cấu trúc bị biến đổi sẽ dẫn tới hậu quả như thế nào? ADN (gen ) đột biến mARN bị biến đổi Rối loạn quá trình sinh tổng hợp Prôtêin Tính trạng (kiểu hình) bị biến đổi. Giáo viên liên hệ thực tế: Nêu tác hại của bom nguyên tử do Mỹ thả xuống Nhật bản (tia phóng xạ), chất độc màu da cam (hoá chất) do Mỹ thả xuống Việt Nam trong chiến tranh; Việc sử dụng thuốc trừ sâu không đúng kỹ thuật...tác động vào gen gây ra nhiều bệnh nguy hiểm như dị dạng, câm điếc bẩm sinh.... Do đó phải mọi người phải có ý thức đấu tranh phòng chống, bảo vệ môi trường trong sạch. Để tìm hiểu vai trò của đột biến gen giáo viên yêu cầu học sinh nghiên cứu thông tin trong SGK, quan sát hình 21.2;21.3; 21.4 trong SGK. (có thể sưu tầm thêm một số tranh ảnh về tác hại và lợi ích của đột biến gen cho học sinh quan sát). Hỏi: Qua các hình quan sát và từ thực tế hãy cho biết những đột biến nào có lợi, đột biến nào có hại, vì sao? Giáo viên nhận xét, bổ sung và ghi bảng tóm tắt theo sơ đồ: Thường có hại. Đột biến gen Một số ít trung tính Một số ít có lợi Hỏi: Vì sao đột biến gen thường có hại cho cơ thể? Cho ví dụ cụ thể? Giáo viên dùng sơ đồ (vừa ghi trên) giảng giải và lấy ví dụ để làm rõ cơ chế. Hỏi: Đa số đột biến gen tạo ra các gen lặn, vậy chúng được biểu hiện ra kiểu hình khi nào? em hãy lấy một ví dụ cụ thể? Sau khi nhận xét câu trả lời của học sinh, giáo viên nêu rõ thêm :đột biến gen chỉ biểu hiện khi ở cơ thể đồng hợp và trong điều kiện môi rường thích hợp. Ví dụ: Đột biến gây bênh bạch tạng do một đột biến gen lặn gây ra tóc màu trắng, mắt màu hồng: P: Aa x Aa F: 3A- : 1aa Vì vậy tần số đột biến gen thấp, trong thực tế qua giao phối nếu gặp tổ hợp gen thích hợp một đột biến vốn có hại có thể trở thành có lợi; hoặc một số đột biến gen có hại cho sinh vật nhưng lại có lợi cho con người. Vai trò của đột biến gen: Giáo viên đặt vấn đề: Tuy một số ít đột biến gen có lợi nhưng nó có vai trò rất quan trọng, vì sao? Là nguồn nguyên liệu quan trọng trong quá trình tiến hoá và chọn giống. Giáo viên nêu một số thành tựu như: Đột biến tự nhiên cừu chân ngắn ở Anh làm chúng không nhảy qua hàng rào để phá vườn, đột biến giống lúa Tám thơm Hải Hậu tạo ra giống Tám thơm trồng được 2 vụ / năm trên nhiều điều kiện đất đai... Để củng cố bài, giáo viên dùng bảng phụ với nội dung bao quát các kiến thức cơ bản của bài học như sau: Câu 1: ĐIỀN VÀO CHỖ TRỐNG: Đột biến gen gây rối loạn................................................................................... .....................................................nên đa số đột biến gen thường....................... Câu 2: HÃY THỰC HIỆN BÀI TẬP SAU: Một đoạn gen có cấu trúc như sau: .......XGG – AAT – GXX – TTA – XGX – TAT .............. .......GXX – TTA – XGG – AAT – GXG – ATA .............. Đoạn gen này quy định...............axit amin trong cấu trúc bậc 1 của prôtêin. Nếu đoạn gen bị mất đi 3 cặp nuclêôtit kế tiếp nhau thì số axit amin là....... Phần III. KẾT LUẬN Với việc nghiên cứu kỹ chương trình SGK, đọc các tài liệu tham khảo bài “Đột biến gen’’ đã đựơc chuẩn bị khá chu đáo, công phu. Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thức rằng: để hiểu hết ý định của người viết sách giáo khoa thật là không dễ, nhưng để truyền đạt những kiến thức cơ bản đó đến với học sinh với vai trò là người tổ chức, hướng dẫn để học sinh tự tìm tòi, phát hiện kiến thức càng khó khăn hơn. Ở bài học này, với các phương tiện dạy học đơn giản, dễ làm, dễ sử dụng, không tốn kém về thời gian lẫn vật chất mà học sinh lại hiểu rõ được cơ chế, nguyên nhân phát sinh đột biến gen và vai trò của đột biến gen thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở, học sinh tự rút ra kết luận chứ không bị áp đặt một cách máy móc. . Để kiểm tra tính thực tiễn của đề tài qua 2 năm thực hiện, tôi đã thu được kết quả so với khi chưa áp dụng đề tài như sau: Chưa áp dụng SKKN Áp dụng SKKN Năm 2008-2009 Năm 2009-2010 Sĩ số 40 SL Tỷ lệ (%) Sĩ số 40 SL Tỷ lệ (%) Sĩ số 40 SL Tỷ lệ (%) Giỏi 7 17.5 Giỏi 9 22.5 Giỏi 13 32.5 Khá 8 20.0 Khá 12 30.0 Khá 16 40.0 Trung bình 17 42.5 Trung bình 15 37.5 Trung bình 9 22.5 Yếu 8 20.0 Yếu 4 10.0 Yếu 2 5.0 Bài soạn này, qua các đợt chuyên đề cũng đã được đồng nghiệp tham khảo thực hiện và đạt hiệu quả cao. Như vậy với suy nghĩ, cố gắng ban đầu tôi thấy rằng khi tập trung đầu tư công sức, kiến thức theo phương pháp tích cực vào bài dạy, học sinh tiếp thu bài một cách tích cực không thụ động và hứng thú hơn. Chính sự ham học của học sinh lại là động lực thúc đẩy giáo viên cần phải đổi mới tư duy, phương pháp dạy học phù hợp với SGK mới. Mỗi giờ học mà các em đạt kết quả cao đã thể hiện được phần nào tâm huyết của người dạy. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Trước hết giáo viên phải thật sự là những người có trình độ kiến thức chuyên môn vững vàng, một vốn ki
File đính kèm:
- SKKN Sinh 9 nam 2010.doc