Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24-36 tháng tuổi
Dựa vào những cơsởlý luận trên, đối chiếu với tình hình thực tế, tôi nhận
thấy sựchênh lệch vềvốn từcủa trẻ ởcùng một lứa tuổi trong lớp khá lớn. Qua
quá trình tìm hiểu, tôi nhận thấy vốn từcủa trẻkhông phụthuộc vào điều kiện
vật chất, kinh tế gia đình mà trước hết liên quan rất nhiều đến thới gian trò
chuyện với trẻhay không?Cô và cha mẹcó lắng nghe bé kểchuyện vềsinh hoạt
và bạn bè hay không? Cô có thường xuyên kểchuyện cho bé nghe và hướng dẫn
bé kểlại không?.Tất cảnhững điều đó không chỉlàm tăng vốn từcủa trẻ, sự
hiểu biết nghĩa của từ, cách dùng từcủa trẻmà còn làm phong phú hiểu biết và
xúc cảm của trẻ.
ực nào của xã hội. Để có vốn từ phát triển trước tiên ta phải bắt đầu phát triển ngôn ngữ cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non vì ở lứa tuổi này phát triển vốn từ là giúp trẻ nắm được nhiều từ, hiểu được ý nghĩa của từ, biết sử dụng từ trong giao tiếp. Phát triển từ cho trẻ là quá trình hình thành giúp trẻ làm quen với các từ mới, củng cố vốn từ làm cho vốn từ phong phú tích cực hóa ngôn ngữ cho trẻ.Quá trình này liên quan chặt chẽ với giai đoạn nhận thức tiếp theo của trẻ để hình thành các biểu tượng về thế giới xung quanh.. Đặc biệt trẻ ở lứa tuổi 24- 36 tháng tuổi, giai đoạn này người ta gọi là giai đoạntiền ngôn ngữ vì đặc điểm sinh lý ở lứa tuổi này có vùng ngôn ngữ bắt đầu hình thành và phát triển mạnh, do đó mà trẻ được tác động mạnh mẽ về ngôn ngữ từ phía môi trường xung quanh trẻ, thì vùng ngôn ngữ của trẻ có điều kiện phát triển nhanh. Nhưng trong thực tế môi trường gia đình:ông, bà., bố, mẹ...hay môi trường xã hội: cô giáo còn ít quan tâm đến việc phát triển vốn từ cho trẻ nên nhìn chung vốn từ của trẻ còn nhiều hạn chế. Ngoài ra tôi tự tìm tòi biện pháp đúc rút kinh nghiệm từ thực tế dạy trẻ ở các nội dung và chọn đề tài: "Kinh nghiệm phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng tuổi" 2. Thực trạng của vấn đề: 2.1. Thuận lợi: - Lớp được chia theo đúng độ tuổi quy định - Trẻ đi học chuyên cần - Đồ dùng phục vụ cho việc phát triển vốn từ cho trẻ phong phú về hình ảnh, màu sắc hấp dẫn( tranh ảnh, vật thật.. ) - Luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của BGH nhà trường. - Giáo viên nắm vững phương pháp giảng dạy bộ môn, được bồi dưỡng thường xuyên và tham gia học tập tại các lớp chuyên đề do sở, phòng tổ chức. - Giáo viên nhiệt tình, sáng tạo làm đồ dùng phục vụ cho việc cung cấp và phát triển vốn từ cho trẻ. - Trình đồ của giáo viên đều đạt chuẩn và trên chuẩn. 5 2.2 . Khó khăn: - Trẻ 24- 36 tháng tuổi do tôi phụ trách là độ tuổi còn non nớt, các cháu bắt đầu đi học còn khóc nhiều, chưa quen với các cô và các bạn, chưa thích nghi với điều kiên sinh hoạt và các hoạt động ở lớp, các cháu không cùng tháng tuổi, mỗi cháu đều có sở thích và cá tính khác nhau. - Trí nhớ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ chưa biết hết khối lượng các âm tiếp thu cũng như trật tự các từ khi nhắc lại câu của người lớn. Vì thế trẻ thường xuyên bỏ bớt từ, bớt âm khi nói. - 85% kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận thức còn hạn chế dẫn đến tình trạng trẻ thường dùng từ không chính xác. - 60% trẻ nói phát âm sai do ảnh hưởng ngôn ngữ của người lớn xung quanh - Ở lớp nhà trẻ, thời gian chăm sóc trẻ chiếm đa số nên việc giáo viên chú ý phát triển vốn từ cho trẻ đôi khi còn gặp nhiều khó khăn. - Đa số phụ huynh đều bận công việc hoặc có những lý do khách quan nào đó ít có thời gian trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói. Trẻ được đáp ứng đầy đủ về nhu cầu mà trẻ cần. + VD: Trẻ chỉ cần chỉ, cần nhìn vào những gì mình thích thì được đáp ứng ngay mà không cần phải dùng lời để yêu cầu hoặc xin. Đây cũng là một trong những nguyên nhân của việc vốn từ của trẻ rất nghèo nàn. - Đứng trước một số khó khăn như vậy, tôi đã tìm tòi, suy nghĩ và nghiên cứu tài liệu để tìm ra một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ và qua thực tiễn dạy trẻ hàng ngày, trong những năm học vừa qua, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm sau: 3. Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ. 3.1. Khảo sát trẻ đầu năm: Đây là biện pháp theo tôi là rất cần thiết. Qua khảo sát tôi có thể nắm rõ những mặt ưu điểm và hạn chế của trẻ.Bên cạnh đó khảo sát trẻ trên lớp khiến tôi và học sinh của mình có thể hiểu nhau hơn. Khảo sát đàu năm: NỘI DUNG TỐT KHÁ ĐẠT CHƯA ĐẠT SL % SL % SL % SL % Trẻ nói được câu một từ 20 52,6 18 47,4 38 100 00 0 Trẻ nói được câu hai từ 12 26,3 11 28,9 33 86,8 05 13,2 Trẻ nói được câu ba từ 05 13,2 15 39,5 20 52,6 18 47,4 Trẻ nói được câu bốn từ 02 5,3 3 7,8 05 13,2 33 86,8 6 3.2. Tìm hiểu đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ nhà trẻ - Muốn phát triển vốn từ cho trẻ, theo tôi điều đầu tiên chúng ta phải hiểu được phát triển vốn từ cho trẻ là gì ? Phát triển vốn từ cho trẻ giúp trẻ nắm vững được nhiều từ, hiểu ý nghĩa của từ và biết sử dụng từ trong các tình huống giao tiếp. Để làm được như vậy tôi phải dựa trên các cơ sở lý luận sau: 3.2.1. Cơ sở ngôn ngữ - Đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ nhà trẻ: Vốn từ của trẻ tăng nhanh, số lượng từ chủ động của trẻ từ 500- 600 từ. Trong vốn từ của trẻ có tất cả các loại từ đơn, từ ghép.ở trẻ có cả từ ghép 3- 4 tiếng bên cạnh đó trẻ có nhu cầu giao tiếp với mọi người, trẻ thích tìm hiểu những điều mới lạ trong cuộc sống xung quanh, những từ các cháu được sử dụng hầu hết là những từ chỉ tên gọi, những gì gần gũi xung quanh mà hàng ngày trẻ tiếp xúc. Ngoài ra, trẻ cũng nói được một số từ chỉ hành động, chỉ những công việc của bản thân và mọi người xung quanh, chỉ hành động của những con vật mà trẻ biết. Ví dụ : Máy bay - Máy bay bay Tàu hỏa - Tàu hỏa chạy Con cá - Con cá bơi Bố cháu - Bố cháu đi làm Tôi nhận thấy vốn từ của trẻ tuy phát triển nhưng vẫn còn hạn chế bộ máy phát âm của trẻ đang hoàn thiện dần nên khi trẻ nói, trẻ hay nói chậm, hay nói kéo dài giọng,đôi khi còn ậm, ừ, ê, a, không mạch lạc. Để giúp trẻ phát triển vốn từ, tôi thấy người giáo viên cần phải nắm vững vốn từ của trẻ. Mặt khác, các cô giáo phải nói to, rõ ràng, mạch lạc, dễ nghe. 3.2.2. Cơ sở tâm lý: Tư duy của trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ là tư duy trực quan. Thời kỳ này, khả năng chi giác về các sự vật hiện tượng bắt đầu được hoàn thiện.Trẻ hay bắt chước những cử chỉ và lời nói của người khác, do vậy ngôn ngữ của cô giáo phải trong sáng và chính xác để trẻ nói theo. 3.2.3. Cơ sở giáo dục: Ngôn ngữ của trẻ chỉ được hình thành và phát triển qua giao tiếp với con người và sự vật hiện tượng xung quanh. Để thực hiện điều đó phải thông qua nhiều phương tiện khác nhau như qua các giờ học, các trò chơi, dạo chơi ngoài trời và sinh hoạt hàng ngày, rèn luyện và phát triển vốn từ cho trẻ, tập cho trẻ biết nghe, hiểu và phát âm chính xác các âm của tiếng mẹ đẻ, hướng dẫn trẻ biết cách diễn đạt ý muốn của mình cho người khác hiểu.Vì vậy khi cho trẻ tiếp xúc với các sự vật hiện tượng thì phải cho trẻ biết gọi tên,đặc điểm của đối tượng, không những thế, giáo viên dạy trẻ biết nói câu dầy đủ, rõ nghĩa, dạy trẻ phát âm chuẩn của tiếng việt, đảm bảo các 7 nguyên tắc của giáo dục học tính khoa học, tính hệ thống, tính vừa sức, tính tiếp thu. Dựa vào những cơ sở lý luận trên, đối chiếu với tình hình thực tế, tôi nhận thấy sự chênh lệch về vốn từ của trẻ ở cùng một lứa tuổi trong lớp khá lớn. Qua quá trình tìm hiểu, tôi nhận thấy vốn từ của trẻ không phụ thuộc vào điều kiện vật chất, kinh tế gia đình mà trước hết liên quan rất nhiều đến thới gian trò chuyện với trẻ hay không?Cô và cha mẹ có lắng nghe bé kể chuyện về sinh hoạt và bạn bè hay không? Cô có thường xuyên kể chuyện cho bé nghe và hướng dẫn bé kể lại không?...Tất cả những điều đó không chỉ làm tăng vốn từ của trẻ, sự hiểu biết nghĩa của từ, cách dùng từ của trẻ mà còn làm phong phú hiểu biết và xúc cảm của trẻ. Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ ở lớp thông qua một số hoạt động sau: 3.3. Phát triển vốn từ cho trẻ thông qua hoạt động học: Phát triển vốn từ cho trẻ ở trường Mầm Non là công tác giáo dục có kế hoạch, có mục đích, có tổ chức và phải mang tính hệ thống nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ như một phương tiện giao tiếp quan trọng vì thế chúng ta phải dạy cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi, trên những tiết học cụ thể, trong đó phát triển ngôn ngữ, vốn từ phải được đặt lên vị trí hàng đầu. 3.3.1. Thông qua giờ nhận biết tập nói: Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung cấp từ vựng cho trẻ. Trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng tuồi đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói một từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong tiết học cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ. Bên cạnh đó cô cũng phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng , ngắn gọn, trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu, không nói câu cụt lủn hoặc cộc lóc. Ví dụ : Trong bài nhận biết quả dưa,quả cam, quả đu đủ " Cô muốn cung cấp từ " Mắt dứa" cho trẻ Cô phải chuẩn bị đầy đủ các loại quả thật, để trẻ sử dụng các giác quan: sờ, nhìn, nếm, ngửi,... nhằm phát huy được tính tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ đích... Đề giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát, cô cần đưa ra một hệ thống câu hỏi: + Đây là quả gì? ( Đây là quả dứa ạ ) + Quả dứa có màu gì ( Màu vàng ) + Đây là cái gì của quả dứa (Vỏ dứa ) 8 + Vỏ dứa như thế nào ?( Vỏ dứa có mắt ạ ) Như vậy nhờ có sự giao tiếp giữa cô và trẻ đã giúp trẻ phát huy được tính tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ, phát triển năng lực quan sát, phát triển các giác quan, kích thích lòng ham hiểu biết tìm tòi khám phá về những điều bí ẩn của các sự vật xung quanh.Qua đó củng cố, mở rộng vốn hiểu biết, làm giầu vốn từ cho trẻ. 3.3.2. .Qua giờ thơ, truyện. Trên tiết học khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển ngôn ngư nói cho trẻ và còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc mà muốn làm được như vây trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng học thêm được các từ mới qua giờ học thơ truyện. Khi tiếp xúc với bài thơ, câu chuyện là trẻ đã được tri giác các bức tranh có hình ảnh và từ ngữ mới tương ứng với nội dung bức tranh. Ví dụ1: Trẻ nghe câu chuyện " Bác gấu đen và hai chú thỏ" Cô muốn cung cấp cho trẻ từ " Ướt lướt thướt" Cô có thể cho trẻ xem tranh, mô hình và giải thích từ " ướt lướt thướt". Bên cạnh đó cô cũng chuẩn bị một số hệ thống câu hỏi giúp trẻ nhớ được nội dung truyện và từ vừa học. + Bác gấu đen trong câu chuyện cô vừa kể đi đâu ?( Đi chơi rừng ) + Khi gặp trời mưa , bác gấu đen bị làm sao ? ( Ướt lướt thướt ) Cô kể 1 -2 lần giúp trẻ hiểu tác phẩm và đặt tiếp hệ thống câu hỏi hướng vào việc hiểu biết các hành động của nhân vật để trẻ hiều việc nào nên làm, việc nào không nên làm. + Qua câu chuyện, con yêu quý ai ? ( Bác gấu đen, bạn thỏ trắng ) ( Vì bạn thỏ trắng và bác gấu đen là những người tốt bụng ) Ví dụ 2 : Qua bài thơ "Cây bắp cải " Cô muốn cung cấp cho trẻ từ " Sắp vòng quanh" Cô có thể cho trẻ quan sát vật thật. Cho trẻ được xem,được sờ... các lá bắp cải sắp vòng quanh như thế nào?Cô vừa giải thích vừa chỉ cho trẻ xem và cho trẻ cùng làm động tác mô phỏng các là được xếp vòng quanh với nhau tạo thành cây bắp cải xanh. Bên cạnh đó cô cũng chuẩn bị một hệ thống câu hỏi : + Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gị ? Cây bắp cải + Cây bắp cải trong bài thơ được tác giả miêu tả đẹp như thế nào ? ( Xanh man mát ) + Lá bắp cải trong bài thơ được tác giả miêu tả như thế nào ? ( Sắp vòng quanh) Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của trẻ mà còn dạy trẻ thể hiện và mô phỏng những động tác tương ứng với nhân vật 9 trong bài thơ, câu truyện.Khi trẻ đã biết kể lại truyện cùng với co điều đó chứng tỏ trẻ đã biết ghi nhớ cốt truyện và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện, lĩnh hội kinh nghiệm tiếp thu kiến thức, biết sử dụng nhiều từ mới thể hiện sự tương ứng mới nội dung câu truyện đó. 3.3.3.. Qua giờ âm nhạc Các tiết học âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều với đồ vật ( Trống , lắc, phách tre và nhiều vật liệu ) trẻ được học những giai điệu vui tươi kết hợp với các loại hoạt động ( Vận động theo bài hát một cách nhịp nhàng. Để làm được như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức, vốn từ, kỹ năng nhất là sự giao tiếp bằng ngôn ngữ của trể được tích lũy và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật, giúp trẻ yêu âm nhạc. Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng những hình ảnh đep của bài hát. Ví dụ : Hát và vận động bài " Con voi" Trẻ biết sử dụng động tác minh họa đơn giản như: Trông đằng xa kia có con chi to ghê: Trẻ dùng một ngón tay vẫy vẫy Sao trông giống như xe hơi : Hai tay tạo hình chữ nhật ở trước ngực Lăn lăn bánh xe đi chơi : Hai tay quay vòng tròn À thì ra con voi :Dùng tay chỉ kết hợp với vẫy nhẹ Vậy mà...đuôi trên đầu: Dùng tay phải đặt giữa đỉnh đầu vẫy nhẹ. 3.4 . Phát triển vốn từ của trẻ thông qua chơi. Đây có thể coi là một trong những hình thức quan trọng nhất. Bởi giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hóa vốn từ cho trẻ. Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong quá trình chơi trẻ được sử dụng các loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung rất khác nhau. Ví dụ : Trò chơi bế em Búp bê của bạn ăn chưa ? ( Rồi ạ ) Bạn đã cho búp bê ăn lúc nào vậy? ( Vừa ăn xong ) Điều đó cho thấy giờ chơi không chỉ dạy trẻ kỹ năng chơi mà còn dạy trẻ nghe hiểu, giao tiếp cùng nhau Trong quá trình chơi, trẻ được thực hiện nhiều hành động khác nhau với đồ chơi như vậy trẻ phải sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và phát triển lời nói cho trẻ. Ví dụ : Tài ơi ! Con đang xếp gì đấy ? ( Con xếp đoàn tàu ) 10 Con xếp đoàn tàu bằng những hình gì? (Hình vuông, hình chữ nhật, hình tròn ạ) Như vậy trò chơi sáng tạo cũng góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trong quá trình chơi trẻ bắt buộc phải giao tiếp với nhau do vậy vốn từ của trẻ được phát triển ngày một phong phú. Ví dụ : Trò chơi bế em, cô nhập vai làm mẹ cho búp bê bú, cho búp bê ăn, búp bê ngủ trẻ sẽ bắt chước những lời cô nói như : " Con của mẹ ngoan quá!" Biết hát ru " à ơi " cho em bé ngủ Ngoài trò chơi, phản ánh sinh hoạt, trong giờ chơi, cô tổ chức cho trẻ chơi những trò chơi học tập nhằm phát triển vốn từ cho trẻ. Ví dụ : Trò chơi với động từ, danh từ. Cô nói động từ, trẻ ghép các danh từ chỉ người, con vật, sự vật thích hợp với động từ đó hoặc ngược lại. Ví dụ: Người Cò Tàu Chạy Chim Bay Ngựa Máy bay Ô tô Bò Tầu Đi Còi Kêu Ngựa - Trò chơi với các tính từ: Cô nói tính từ chỉ màu sắc của các sự vật, phẩm chất con người... cháu nói danh từ phù hợp với các tính từ đó ( hoặc ngược lại ) Ví dụ: Nước chảy Gió thổi Suối chảy Róc rách Thác đổ ào ào (Suối reo ) Nước chảy Chuông kêu Kẻng kêu Leng keng 11 - Trò chơi bắt chước tiếng kêu của các con vật: Cô nói Trẻ kêu Con mèo Mèo meo Con vịt Cạp cạp Con chó Gâu gâu - Trò chơi đoán đặc điểm của các con vât: Cô nói Trẻ nói Con gà mái Có hai chân Con chó Có bốn chân Trong quá trình chơi trẻ được thực hiện nhiều lần, nhiều hành động khác nhau, như vậy trẻ phải sử dụng ngôn ngữ để tìm tòi, khám phá cách chơi, luật chơi. Cô giáo có vai trò quan trọng thúc đẩy, kích thích trẻ sử dụng ngôn ngữ và phát triển lời nói mạch lạc, đúng ngữ pháp của trẻ. 3.5. Qua giờ đón trả trẻ. - Cô phải tích cực trò chuyện cùng trẻ và yêu cầu trẻ trả lời các câu hỏi của cô rõ ràng. Trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua trò chuyện với trẻ, cô cung cấp, mở rộng " vốn từ" cho trẻ. Ví dụ: Bó con tên gì ? ( Bố con tên là Tuán ạ ) Sáng nay ai đưa con đi học ?( Mẹ con ạ ) Mẹ con đi bằng gì ? ( Xe đap ) Xe đạp kêu như thế nào ? ( Kính koong ) Nhà con có những ai ? ( Ông, bà, bố, mẹ ) Như vậy khi trẻ mạnh dạn trò chuyện cùng với cô nghĩa là trẻ đã tự tin vào " vốn từ vựng" của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn Bên cạnh đó cô cũng thường xuyên đọc thơ, kể chuyện cho trẻ nghe, khuyến khích trẻ phát âm và yêu cầu trẻ trả lời một số câu hỏi đơn giản. Ví dụ: Khi cô đọc cho trẻ nghe câu chuyện " Thỏ con không vâng lời" Cô vừa đọc cho con nghe câu chuyện gì ( Thỏ con không vang lời ạ ) Trong câu chuyện cô vừa đọc có những ai ? ( Thỏ con, thỏ mẹ..) 12 Khi không nhớ đường về nhà thỏ con đã làm gì ? ( Khóc hu..hu...hu ) 3.6. Thông qua các hoạt động khác: Cung cấp vốn từ cho trẻ thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày. 3.6.1. Trong giờ ăn: Trẻ tiếp nhận được số lượng những từ ngữ mới góp phần làm giầu vốn từ cho trẻ. Ví dụ : Cô giới thiệu món ăn, hỏi trẻ những chất dinh dưỡng có trong thức ăn. Cô mời cả lớp ăn cơm. Trẻ mời lại. 3.6.2. Trong giờ ngủ: Cô hát những ca khúc thân thương để hiểu những quy tắc trong giờ ngủ. Ví dụ: Cô hát bài " Giờ đi ngủ" Khi lắng nghe cô hát thì trẻ nằm đúng tư thế, không nói chuyện, không nằm sấp. 3.6.3. Khi cho trẻ dạo chơi thăm quan: Dạo chơi thăm quan là loại tiết học đặc biệt nhằm phát triển vốn từ cho trẻ.Trong giờ dạo chơi, thăm quan, trẻ được trực tiếp quan sát các sự vật hiện tượng phong phú của cuộc sống.Mục đích của dạo chơi, tham quan là mở rộng tầm hiểu biết cho trẻ, trên cơ sở đó cung cấp, củng cố một số lượng lớn vốn từ cho trẻ. Để dạo chơi, thàm quan có hiệu quả, cô giáo cần phải chuẩn bị tốt nội dung cho trẻ quan sát, những từ, câu cần dạy trẻ. Những câu hỏi yêu cầu trẻ trả lời, những phương pháp, biện pháp cần tích cực hóa ngôn ngữ cho trẻ. Ví dụ: Cho trẻ quan sát con gà trống. Cô phải chọn được vị trí để con gà trống cho mọi trẻ đều quan sát được. Bên cạnh đó cô cũng cần chuẩn bị một số hệ thống câu hỏi như: + Đây là con gì ? + Các con nhìn thấy con gà trống đang làm gì? + Con gà trống đang ăn gì đấy? + Con gà trống có dáng đi như thế nào? Thường sau một thời gian đi thăm quan về, cô tổ chức đàm thoại về nội dung thăm quan nhằm củng cố kiến thức thu được trong buổi thăm quan,củng cố và tích cực hóa vốn từ cho trẻ. Bên cạnh đó cô luôn sửa sai câu nói của trẻ ở mọi lúc mọi nơi đề giúp trẻ có một nguồn vốn từ phong phú, đa dạng. 13 3.7. Kết hợp với phụ huynh Để vốn từ của trẻ phát triển tốt điều không thể thiếu được đó là nhờ sự đóng góp của gia đình Cô thường xuyên gặp gỡ nói chuyện về tình hình hoạt động của trẻ trong lớp qua đó phụ huynh nắm bắt được các nội dung chương trình giáo dục hiện hành đồng thời hàng ngày cô cũng trao đổi với phụ huynh về ý nghĩa của việc phát triển vốn từ cho trẻ. Đề phối hợp cùng giáo viên trong việc phát triển vốn từ cho trẻ thì phụ huynh hàng ngày dành thời gian thường xuyên trò chuyện cùng trẻ cho trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với các sự vật hiện tượng xung quanh, lắng nghe và trả lời các câu hỏi của trẻ Đối với những cháu mói học nói thì vài trò của phụ huynh trong việc phối hợp với các cô giáo trong việc trò chuyện nhiều với trẻ là càng cần thiết bởi nó giúp trẻ được vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ, trẻ được giao tiếp, được sửa phát âm, sửa ngọng. Có như vậy tiếng nói tích cực của trẻ mới được hoàn thiện và trong sáng. 4. Kết quả. Trải qua quá trình thực hiện bền bỉ, liên tục, trẻ lớp tôi đã có những chuyển biến rõ rệt, phần lớn số trẻ trong lớp đã có một số vốn từ rất khá, các cháu nói năng mạch lạc, rõ ràng, biết cách diễn đạt ý muốn của mình, mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp, vốn từ của trẻ đã phong phú hơn rất nhiều so với kết quả đầu năm tôi đã khảo sát. Cụ thể như sau: Nội dung Lần 1 Lần 2 Tốt Khá Đạt CĐạt Tốt Khá Đạt CĐạt SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % Trẻ nói được câu một từ 20 52,6 18 47,4 38 100 00 00 32 84,2 08 21,1 38 100 00 00 Trẻ nói được câu hai từ 12 26,3 11 28,9 33 86,8 05 13,2 22 58 16 42,2 38 100 00 00 Trẻ nói được câu ba từ 05 13,2 15 39,5 20 52,6 18 47,4 15 39,5 17 44,7 32 84,2 06 15,8 Trẻ nói được câu bốn từ 02 5,3 03 7,8 05 13,2 33 86,8 10 26,3 14 36,8 24 63,2 14 36,8 14 Bên cạnh đó ở lớp tôi có một số cháu đã sử dụng vốn từ các cô cung cấp cũng rất hay và ngộ nghĩnh trong sinh hoạt hàng ngày. + Trong giờ hoạt động ngoài trời, cô cho trẻ quan sát vườn
File đính kèm:
- “Kinh nghiệm phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24 – 36 tháng tuổi”.pdf