SKKN Phát huy tính tích cực cho học sinh Lớp 8 và học sinh tham gia thi Tin học trẻ trong khi giảng dạy Pascal

Pascal là một ngôn ngữ lập trình cho máy tính thuộc dạng mệnh lệnh, được Niklaus Wirth phát triển vào năm 1970 là ngôn ngữ đặc biệt thích hợp cho kiểu lập trình có cấu trúc.Pascal dựa trên ngôn ngữ lập trình Algol và được đặt tên theo nhà toán học và triết học người Pháp Blaise Pascal. Cho đến nay Pascal vẫn được dùng để giảng dạy về lập trình trong nhiều trường trung học và đại học trên thế giới, và nhiều thế hệ sinh viên đã “vào đời” thông qua việc học Pascal như ngôn ngữ vỡ lòng trong các chương trình học đại cương. Nhiều biến thể của Pascal ngày nay vẫn còn được sử dụng khá phổ biến, cả trong giảng dạy lẫn trong công nghiệp phát triển phần mềm.Phần lớn hệ điều hành Macintosh được viết bằng Pascal. Hệ sắp chữ TeX được Donald Knuth viết bằng ngôn ngữ mang nhiều yếu tố của Pascal. Trong chương trình Tin học cấp trung học cơ sở, ở lớp 8 phần lập trình đơn giản, học sinh được học ngôn ngữ lập trình Pascal để lập trình giải các bài toán đơn giản trong chương trình trung học cơ sở và cũng như nội dung thi Tin Học Trẻ đều sử dụng ngôn ngữ lập trình Pascal để giải các bài toán đó.

Hiện nay trong lí luận dạy

 

doc9 trang | Chia sẻ: Minh Văn | Ngày: 11/03/2024 | Lượt xem: 118 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung SKKN Phát huy tính tích cực cho học sinh Lớp 8 và học sinh tham gia thi Tin học trẻ trong khi giảng dạy Pascal, để tải tài liệu về máy bạn hãy click vào nút TẢI VỀ
ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : 
PHÁY HUY TÍNH TÍCH CỰC CHO HỌC SINH LỚP 8 VÀ HỌC SINH THAM GIA THI TIN HỌC TRẺ 
TRONG KHI GIẢNG DẠY PASCAL
A - PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Tin học là một trong những môn học khó giảng dạy nhất và đòi hỏi giáo viên phải không ngừng nâng cao trình độ. Tin học là môn học mới nên chưa có nhiều kinh nghiệm về lý luận và thực tế; trình độ ngoại ngữ hạn chế của giáo viên hiện nay... cũng là rào cản trong việc nâng cao trình độ Tin học giáo viên. Trong khi đó, trình độ của học sinh không đồng đều giữa các trường, các trường có điều kiện tiếp xúc với khoa học công nghệ phát triển sẽ có cơ hội tiếp cận với CNTT nhanh hơn. Không chỉ vậy, trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị và các yếu tố khác kèm theo ở nhà trường cũng rất khác nhau, gây khó khăn không nhỏ cho giáo viên và học sinh trong dạy - học Tin học. Chất lượng và hiệu quả về giáo dục của môn Tin học hiện nay vẫn là vấn đề dai dẳng, chưa được giải quyết. Chính vì thế đối với giáo viên trong việc giảng dạy cho học sinh, ngoài việc giúp học sinh lĩnh hội những kiến thức cơ bản. Giáo viên còn phải biết kích thích tính tích cực, sự sáng tạo say mê học hỏi của học sinh trong việc học tập của các em. Bởi vì việc học tập tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo đòi hỏi học sinh phải có ý thức về những mục tiêu đặt ra và tạo được động lực bên trong thúc đẩy bản thân họ hoạt động để đạt các mục tiêu đó. 
	Qua những năm dạy học, tôi nhận thấy khi học Pascal học sinh thường không hứng thú với môn học này vì nhiều lý do như: khô khan, khó hiểu và đòi hỏi tư duy nhiều, các thuật nhữ bằng tiếng anh và nội dung liên qua tới toán học cũng là vấn đề khó khăn làm cho môn học Pascal trở nên không hứng thú với học sinh... Do đó để học được đòi hỏi học sinh phải có hứng thú, đặc biệt với học sinh thi Tin học trẻ cần có sự đam mê, yêu thích tìm tòi học hỏi mới có thể gắn bó, theo học lâu dài môn lập trình Pascal. Đó cũng chính là lý do tôi viết: “ Phát huy tính tích cực cho học sinh lớp 8 và học sinh tham gia thi Tin học trẻ trong khi giảng dạy Pascal ”. Mong muốn giới thiệu một số kinh nghiệm của bản thân trong việc tạo ra hứng thú cho học sinh khi học Pascal, một khi đã hứng thú kết hợp với phương pháp cũng như công cụ thiết kế bài giảng sinh động chắc chắn học sinh sẽ học môn lập trình này trở nên tốt hơn.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
- Hệ thống lại bài tập Pascal giúp các em lập trình theo từng dạng bài tập từ cơ bản đến phức tạp. Từ đó, đưa ra các biện pháp lập trình cho học sinh thông qua các ví dụ cụ thể về chương trình lập trình từng phần khác nhau. Để thực hiện được điều đó, chúng ta cần phải tìm tòi, nghiên cứu tìm ra những bài toán phù hợp, kích thích được sự độc lập, tích cực và tạo sự hứng thú cho học sinh trong học tập.
- Do Pascal khó hiểu, khô khan, khó tư duy,... nên các phương pháp giảng dạy môn học Pascal phù hợp là rất cần thiết.
- Quá trình học sinh học Pascal là rất dài, sự đam mê, yêu thích môn học là rất quan trọng.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Giới thiệu những kinh nghiệm tạo hứng thú cho học sinh khi học Pascal ở trường THCS.
- Nghiên cứu thực nghiệm, nghiên cứu khảo sát và thông qua đồng nghiệp.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
- Đối tượng nghiên cứu là các giáo viên giảng dạy bậc THCS và các em học sinh các lớp 8.
- Kế hoạch nghiên cứu: qua sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt nhóm chuyên môn và trực tiếp qua giảng dạy.
- Phạm vi nghiên cứu: toàn bộ chương trình Tin học lớp 8.
B – PHẦN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ KHOA HỌC:
 1-Cơ sở lý luận
Pascal là một ngôn ngữ lập trình cho máy tính thuộc dạng mệnh lệnh, được Niklaus Wirth phát triển vào năm 1970 là ngôn ngữ đặc biệt thích hợp cho kiểu lập trình có cấu trúc.Pascal dựa trên ngôn ngữ lập trình Algol và được đặt tên theo nhà toán học và triết học người Pháp Blaise Pascal. Cho đến nay Pascal vẫn được dùng để giảng dạy về lập trình trong nhiều trường trung học và đại học trên thế giới, và nhiều thế hệ sinh viên đã “vào đời” thông qua việc học Pascal như ngôn ngữ vỡ lòng trong các chương trình học đại cương. Nhiều biến thể của Pascal ngày nay vẫn còn được sử dụng khá phổ biến, cả trong giảng dạy lẫn trong công nghiệp phát triển phần mềm.Phần lớn hệ điều hành Macintosh được viết bằng Pascal. Hệ sắp chữ TeX được Donald Knuth viết bằng ngôn ngữ mang nhiều yếu tố của Pascal. Trong chương trình Tin học cấp trung học cơ sở, ở lớp 8 phần lập trình đơn giản, học sinh được học ngôn ngữ lập trình Pascal để lập trình giải các bài toán đơn giản trong chương trình trung học cơ sở và cũng như nội dung thi Tin Học Trẻ đều sử dụng ngôn ngữ lập trình Pascal để giải các bài toán đó. 
Hiện nay trong lí luận dạy học nói chung và lí luận dạy học môn Tin học nói riêng yêu cầu sử dụng khá nhiều phương pháp: phương pháp thảo luận, phương pháp đặt câu hỏi, phương pháp chia nhóm  Các cách thiết kế bài giảng hiện nay nhằm mục đích áp dụng phương pháp hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực ham muốn học hỏi, tư duy sáng tạo, năng lực tự giải quyết vấn đề, rèn luyện và phát triển năng lực tự học sáng tạo, nghiên cứu, nghĩ và làm việc một cách tư duy tự chủ Đồng thời để thích ứng với sự phát triển tư duy của học sinh trong xã hội mới và tiếp cận với các công nghệ tiên tiến trong xã hội, trên thế giới. Bên cạnh đó, trong các kỹ thuật dạy học mới, vai trò của người thầy có sự thay đổi là: “hướng dẫn học sinh biết tự mình tìm ra hướng giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập, biết cách làm việc độc lập, làm việc tập thể. Thầy là người định hướng, là người cố vấn giúp học sinh tự đánh giá, cũng như giúp học sinh luôn đi đúng con đường tìm hiểu, lĩnh hội kiến thức”.
2-Cơ sở thực tiễn
Trong thời đại ngày nay các thành tựu của tin học được áp dụng hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội đã mang lại nhiều hiệu quả to lớn. Mối quan hệ tương tác giữa các nhu cầu trong xã hội ngày càng đa dạng với những tiến bộ của khoa hoc kỹ thuật đã dẫn đến sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, việc lập được các chương trình tự hoạt động cho máy tính, máy gia dụng là cần thiết. Và để làm được việc đó cần có một quá trình học tập, nghiên cứu về ngôn ngữ lập trình lâu dài, qua đó nhà lập trình hơn ai hết đó là các học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường hôm nay có thể chọn một ngôn ngữ lập trình thích hợp. Tuy nhiên mọi thứ điều có điểm khởi đầu của nó, với học sinh việc học Pascal là khởi đầu cho việc tiếp cận ngôn ngữ lập trình bậc cao, qua đó giúp các em hình dung được sự ra đời, cấu tạo, hoạt động cũng như ích lợi của các chương trình hoạt động trong máy tính, các máy tự động
Qua đó giúp các em có một niềm đam mê về tin học để từ đó có sự định hướng về nghề nghiệp mà các em chọn sau này. Đồng thời Pascal là một ngôn ngữ có cấu trúc thể hiện trên 3 yếu tố: Cấu trúc về mặt dữ liệu, cấu trúc về mặt lệnh, cấu trúc về mặt chương trình.
Vậy thì chúng ta phải làm như thế nào để sau khi kết thúc lớp 8 thì các em có thể nắm và hiểu được như thế nào là ngôn ngữ lập trình, cụ thể là ngôn ngữ lập trình Pascal mà ta đã nói ở trên bằng những hứng thú và đam mê trong học tập.
II/- TÌNH HÌNH THỰC TẾ VÀ THỰC TRẠNG
 Khi giảng dạy Pascal học sinh thường khó hiểu, tiếp thu chậm nên việc viết được một chương trình chạy được trên máy tính đối với các em rất khó khăn. Ngôn ngữ lập trình Pascal đòi hỏi sự tư duy của người học rất cao mà trong chương trình Tin học các em đã phải học, mức độ tư duy của các em còn hạn chế và không đồng đều trong một lớp học. Giao diện chương trình không thu hút, dễ gây sự nhàm chán cho học sinh. 
Tóm lại, ngoài các nguyên nhân khách quan, quan trọng nhất vẫn là nguyên nhân chủ quan từ phía học sinh đó là kiến thức về toán học, ngoại ngữ còn khiếm khuyết trong nhiều học sinh khó tạo sự yêu thích, đam mê từ môn học này; mà không đam mê thì rất khó học Pascal một cách tốt nhất, dễ dẫn đến tình trạng học cho qua ngày, học đối phó. Dưới đây tôi xin trình bày nội dung mà theo tôi có thể giúp tạo sự yêu thích bộ môn, từ đó học sinh sẽ học hiệu quả hơn môn lập trình Pascal. 
III/- CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 
1- Khả năng truyền đạt:
Khi truyền đạt, giảng dạy Pascal trên lớp do đặc thù môn học này đòi hỏi mức độ tư duy nhất định ở học sinh, các em khó tư duy nên giáo viên khi truyền đạt kiến thức mới cũng như tìm thuật toán cần đưa ra các vấn đề liên quan đến cuộc sống hằng ngày của các em với các con số phép tính cơ bản giúp các em dễ hình dung được vấn đề cũng như công việc các em phải giải quyết. 
Ví dụ 1: 
Khi giảng bài câu lệnh lặp, để học sinh phân biệt được thế nào là lệnh lặp với số lần lặp biết trước, thế nào là lệnh lặp với số lần lặp chưa biết trước, giáo viên có lấy thể ví dụ như sau: 
	Cần đổ đầy một bể chứa 50 lít nước bằng một cái ca có dung tích là 1 lít thì ta phải thực hiện 50 lần đổ nước vào đó là biết trước số lần lặp. Còn nếu đổ với cái ca chưa biết dung tích thì không biết sẽ đổ bao nhiêu lần, chỉ biết cho tới khi nào đầy thì ngừng đó là lặp với số lần chưa biết trước. Từ đó yêu cầu học sinh đưa ra những ví dụ trong cuộc sống liên quan với việc lặp đi lặp lại công việc nào đó và các em sẽ phân tích xem việc nào thì biết trước số lần thực hiện việc nào thì chưa biết trước số lần thực hiện. 
Ví dụ 2: 
Khi giảng bài toán tìm số lớn nhất trong một dãy số, chúng ta nên đưa ví dụ cho các em dễ liên tưởng như: “Em làm thế nào để tìm được bạn cao nhất trong lớp”. Hay, đối với bài toán sắp xếp dãy số tăng dần, ta đưa ví dụ gần thực tế như: “Giả sử em đóng vai trò là lớp trưởng, em làm thế nào để có thể xếp hàng từ thấp đến cao cho các bạn trong lớp”. 
Ví dụ 3: 
Hay đối với bài toán tìm trong một dãy số có số dương nào không, để học sinh có thể tư duy, ta nêu như sau: “ Nếu có ai đó hỏi lớp mình có bạn nào cao trên 1m7 không?, thì em sẽ làm thế nào để trả lời câu hỏi đó ”. Từ đó, với bài toán hỏi trong dãy có toàn số dương không, giáo viên có thể đưa ví dụ: “Có phải lớp mình bạn nào cũng cao trên 1m7 không”. Thời gian đầu giáo viên đưa ra các ví dụ gắn liền với thực tế của các em, để các em tìm cách giải quyết tốt nhất vấn đề đó trong cuộc sống vừa là giúp các em biết giải quyết xử lý các tình huống có thể gặp trong cuộc sống vừa là để từ đó các em tìm ra được thuật toán giải bài toán tốt nhất. Sau này khi đã quen, sau khi đưa đề bài toán, giáo viên có thể cho các em tự liên tưởng đến các vấn đề, hoạt động trong cuộc sống các em. 
2- Phương pháp dạy học: 
Không gì thú vị bằng trong giờ học tự mình ra đề bài sau đó tự mình giải được bài tập đó. Do đó, ngoài những bài tập do giáo viên đưa ra, nên lồng vào các tiết thực hành, làm bài tập cho tự các em ra đề rồi giải, một khi các em có thể tự ra đề là các em đã hiểu rất rõ về câu lệnh đã học và cũng đã nắm được hướng giải quyết bài toán đó nên khi giải sẽ rất nhanh và được giáo viên khích lệ kịp thời sẽ khiến các em rất phấn chấn, mong muốn ra được nhiều bài tập hơn nữa...
 Ngoài ra, trong tiết học nên tổ chức cho các nhóm tự ra đề bài tập và yêu cầu các nhóm khác giải, nhóm này sẽ giải bài của nhóm kia đưa ra. Chắn chắn không khí học lúc đó sẽ rất vui, có không khí ganh đua trong học tập rất tích cực. Hoặc có những tiết những nhóm chuyên ra đề bài tập, nhóm chuyên giải bài, và sẽ hoán đổi nhiệm vụ những tiết học sau. 
Dưới tư duy và ngôn ngữ của học sinh lúc đó giáo viên chúng ta có thể lưu lại được nhiều bài tập hay và gần gũi với học sinh để từ đó làm ngân hàng bài tập phục vụ cho việc giảng dạy. 
 3-Công cụ thiết kế bài giảng:
	Do đặc thù của môn học nên công cụ cũng là một yếu tố mang lại sự hứng thú rất cao với những hình ảnh minh họa các bài toán gần gũi với cuộc sống từ đó giúp các em có được một cái nhìn tổng quan về một bài toán cụ thể. Bên cạnh đó sử dụng công cụ thiết kế bài giảng chúng ta tạo ra những trò chơi hào hứng bổ ích trong không khí chơi mà học giúp các em củng cố lại nội dung và kiến thức đã học một cách thật thoải mái điều đó chắc chắn mang lại kết quả cho việc tiếp thu và nhớ. 
Để cụ thể hóa các biện pháp trên trong một tiết học dưới đây tôi sẽ chọn một trong các dạng bài tập trong chương trình tin học lớp 8 đó là dạng bài tập về câu lệnh lặp với số lần biết trước và chưa biết trước trình chiếu cho các em xem một ví dụ minh họa như sau:
Bình này chứa tối đa là 50 lít
1 lít
Hình 1
Ca
- Giáo viên sẽ đặt câu hỏi như sau: 
?Các em quan sát hình 1 và cho biết phải đổ bao nhiêu lần thì bình sẽ được đổ đầy nước và công việc gì được làm đi làm lại nhiều lần.
Bình này chứa tối đa là 50 lít
 ? lít
Hình 2
Ca
+ Học sinh sẽ trả lời được ngay là số lần thực hiện là 50 lần và công việc được làm đi làm là công việc đổ nước vào bình.
- Tiếp theo cho các em xem hình thứ 2 như sau:
Giáo viên đặt câu hỏi như sau:
?1. Các em có biết được số lần thực hiện công việc đổ nước không ?
?2. Khi nào thì dừng việc đổ nước?
- Từ hai câu hỏi trên thì các em sẽ trả lời được là: chưa biết được số lần đổ và thực hiện công việc đổ nước cho đến khi bình đầy thì dừng việc đổ nước lại.
=> Từ hai hình ảnh ở trên chúng ta có thể giúp cho các em hiểu và biết được như thế nào là lặp và phân biệt được lặp với số lần biết trước và lặp với số lần chưa biết trước.
Khi đó giáo viên sẽ yêu cầu học sinh đưa thêm nhiều ví dụ về công việc hằng ngày của các em mà có lặp đi lặp lại rồi yêu cầu các em phân tích đó là công việc, hoạt động nào có biết trước số lần lặp còn công việc, hoạt động nào thì chưa biết trước số lần”. 	
Nhóm 1: Ví dụ: “Thầy thể dục yêu cầu các em chạy vòng quanh sân trường” 
Nhóm 2: Phân tích: “10 lần đó là số lần lặp biết trước”
Nhóm 3: Ví dụ: “Thầy yêu cầu các em chạy vòng quanh sân trường đến khi nào mệt thì nghỉ”
Nhóm 4: Phân tích: “Thầy sẽ không biết trước học sinh sẽ chạy bao nhiêu vòng, là lặp với số lần chưa biết trước chỉ kết thúc khi mệt.” 
- Sau khi các em đã biết được như thế nào là hoạt động lặp và phân biệt được hai dạng câu lệnh lặp.
- Tiếp theo đó đưa 2 bài toán trong sách giáo khoa làm ví dụ như sau:
Với a là số nguyên được nhập từ bàn phím và a > 2, xét các bài toán sau đây:
Bài 1. Tính và đưa kết quả ra màn hình tổng
Bài 2. Tính và đưa kết quả ra màn hình tổng
Cho đến khi .
Giáo viên đặt vấn đề cho các nhóm giải quyết
Nhóm 1
Câu 1. Bài 1 đã xác định được lần lặp chưa?
Câu 2. Em hãy viết câu lệnh lặp để tính tổng S ở bài 1?
Học sinh trả lời là: đã xác định được lần lặp, cụ thể cộng dồn đến a+100.
Học sinh viết: 
S:=1/a;
for i:=1 to 100 do
S:=S+1/(a+i);
Nhóm 2 
Câu 3. Bài 2 đã xác định được lần lặp chưa?
Câu 4. Em hãy viết câu lệnh lặp để tính tổng S ở bài 2?
Học sinh trả lời là: chưa xác định được lần lặp, vì với a được nhập từ bàn phím thì: 1/(a+N) < 0.0001 không xác định được cụ thể N bằng bao nhiêu.
Học sinh viết:
	S:=1/a;
N:=1;
While 1/(a+N) < 0.0001 do
	Begin
	S:=S+1/(a+N);
	N:=N+1;
	End;
Nhóm 3
Câu 5. Em hãy cho biết sự tương đồng của hai bài toán trên:
Học sinh trả lời:
Xuất phát, S được gán giá trị: 1/a;
Tiếp theo, cộng dồn vào S một giá trị: 1/(a+N), với N tăng từ 1,2,3
Câu 6. Hai bài toán trên khác nhau ở điểm nào?
Học sinh trả lời:
	Bài toán 1 đã biết số lần lặp cụ thể, bài toán 2 chưa xác định được lần lặp cụ thể.
Câu 7. Có thể dùng câu lệnh whiledo để viết vòng lặp tính tổng S ở bài 1 được không? 
Và có thể dùng câu lệnh fordo để viết vòng lặp tính tổng S ở bài 2 được không?
Học sinh trả lời:
	Việc dùng câu lệnh lặp whiledo để thực hiện vòng lặp cho câu lệnh fordo là có thể làm được, nhưng việc dùng câu lệnh fordo để thực hiện vòng lặp cho câu lệnh whiledo là không được vì:
	+ Câu lệnh fordo sau khi thực hiện câu lệnh sau do thì biến đếm tự động tăng lên 1, trong câu lệnh whiledo ta có thể thực hiện lệnh tăng biến_đếm lên 1 bằng cách thực hiện câu lệnh gán biến_đếm:=biến_đếm+1.
	Nhóm 4
Thực hiện việc chuyển đổi chương trình:
+ Câu lệnh fordo kết thúc khi biến_đếm > Giá_trị_cuối, trong câu lệnh whiledo ta có thể đưa điều kiện biến_đếm > Giá_trị_cuối vào trong điều kiện kiểm tra vòng lặp whiledo, cụ thể bài 1 ta có thể thực hiện như sau:
S:=1/a;
N:=1;
While N <= 100 do
	Begin
	S:=S+1/(a+N);
	N:=N+1;
	End;
	+ Câu lệnh whiledo thực hiện câu lệnh khi điều_kiện còn đúng, nên ta không xác định được đến vòng lặp thứ bao nhiêu để điều_kiện sai vì thế ta không thể dùng vòng lặp fordo để thực hiện tính tổng S cho bài 2.
Trong khi nhóm nào đó trình bày các nhóm khác theo giỏi bổ sung nếu sai sót hoàn chỉnh chương trình dựa trên hai vòng lặp đã có ở trên để giải 2 bài toán trên. Sau đó Giáo viên nhận xét tổng kết lại các vấn đề.
IV/-KẾT QUẢ THU ĐƯỢC
Trong quá trình trao đổi, thảo luận, trình bày học sinh được thể hiện khả năng vận dụng, hiểu biết của mình nên các em tỏ ra hăng hái trong việc giơ tay phát biểu tranh luận. Đồng thời tiết học trở nên sinh động hơn và giáo viên không đóng vai trò là người xây dựng lý luận mà học sinh là người chủ động để giải quyết các vấn đề. Hướng dẫn học sinh biết tự mình tìm ra hướng giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập, biết cách làm việc độc lập, làm việc tập thể. Thầy là người định hướng, là người cố vấn giúp học sinh tự đánh giá, cũng như giúp học sinh luôn đi đúng con đường tìm hiểu, lĩnh hội kiến thức”.
Tôi được phân công giảng dạy môn Tin Học ở Khối 8 gồm 5 lớp. Trong quá trình giảng dạy, tôi đã tiến hành thực nghiệm ở 2 lớp 8A và lớp 8C. Kết quả xếp loại môn Tin học trong học kì I và những tiết đầu của học kỳ II năm học 2014 - 2015 giữa 5 lớp 8 có kết quả như sau :
Lớp 8/1:
Số học sinh đạt
Giỏi
11
28.95%
Yếu
0
0%
Số lượng - Tỉ lệ (%)
Khá
25
65.79%
Kém
0
0%
 
Trung bình
2
5.26%
 
 
 

Lớp 8/5:
Số học sinh đạt
Giỏi
26
70.27%
Yếu
0
0%
Số lượng - Tỉ lệ (%)
Khá
11
29.73%
Kém
0
0%
 
Trung bình
0
0%
 
 
 

C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Ngôn ngữ lập trình nói chung đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng các chương trình ứng dụng để phục vụ cho cuộc sống. Nhờ sự phát triển của tin học - trong đó các nhà lập trình chuyên nghiệp đóng vai trò không nhỏ - mà hiện nay hầu hết các lĩnh vực trong xã hội đã ứng dụng được tin học để giải quyết công viêc nhanh, hiệu quả và chính xác hơn.
Hiện nay, ngôn ngữ lập trình Pascal đã trở thành ngôn ngữ lập trình phổ biến nhất trên thế giới sử dụng trong lĩnh vực giảng dạy. Trong quá trình giảng dạy ngoài những nội dung chương trình các thầy cô có thể đưa ra các vấn đề,bài toán phục vụ cho nhu cầu học tập cũng như giải trí của các em như lập trình các game nhỏ,các chương trình dùng để giài các bài toán trong toán họcđể các em có thể chứng tỏ được khả năng của mình làm cho học sinh yêu thích môn học, ham học hỏi và sáng tạo.
Đề tài này mang tính thực tiễn rất cao cụ thể là: Trong tiết học các em học sinh đã chủ động để tìm tòi lại kiến thức đã học qua đó giải quyết được vấn đề do giáo viên đặt ra. Trong quá trình giải quyết vấn đề, giáo viên chỉ ra những sai lầm mà các em học sinh mắc phải từ đó các em hiểu rõ hơn về các câu lệnh trong ngôn ngữ lập trình.
Đề tài của tôi trên đây có thể còn mang màu sắc chủ quan, chưa hoàn thiện do còn hạn chế về trình độ kiến thức và kinh nghiệm giảng dạy. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quí báu của các thầy giáo, cô giáo và các bạn đồng nghiệp để ngày càng hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn./.

File đính kèm:

  • docskkn_phat_huy_tinh_tich_cuc_cho_hoc_sinh_lop_8_va_hoc_sinh_t.doc
Bài giảng liên quan